In the Zone

Album phòng thu năm 2003 của Britney SpearsBản mẫu:SHORTDESC:Album phòng thu năm 2003 của Britney Spears
In the Zone
Album phòng thu của Britney Spears
Phát hành15 tháng 11 năm 2003 (2003-11-15)
Thu âmTháng 11, 2002 – Tháng 8, 2003
Phòng thu
  • 3:20 (Los Angeles)
  • Battery (Thành phố New York)
  • Conway (Los Angeles)
  • Daddy's House (Thành phố New York)
  • Decoy (Los Angeles)
  • Metrophonic (London)
  • Murlyn (Stockholm)
  • Olympic (London)
  • Pacifique (Los Angeles)
  • The Chocolate Factory (Chicago)
  • The Dojo (Thành phố New York)
  • Triangle Sound (Atlanta)
  • Record Plant (Los Angeles)
  • Westlake (Los Angeles)
Thể loại
Thời lượng49:55
Hãng đĩaJive
Sản xuất
  • Bloodshy & Avant
  • Brian and Josh
  • Roy "Royalty" Hamilton
  • Jimmy Harry
  • Penelope Magnet
  • Moby
  • The Matrix
  • R. Kelly
  • Rishi Rich
  • Guy Sigsworth
  • Shep Soloman
  • Mark Taylor
  • Trixster
Thứ tự album của Britney Spears
Britney
(2001)
In the Zone
(2003)
Greatest Hits: My Prerogative
(2004)
Đĩa đơn từ In the Zone
  1. "Me Against the Music"
    Phát hành: 14 tháng 10, 2003
  2. "Toxic"
    Phát hành: 12 tháng 1, 2004
  3. "Everytime"
    Phát hành: 10 tháng 5, 2004
  4. "Outrageous"
    Phát hành: 13 tháng 7, 2004

In the Zonealbum phòng thu thứ tư của ca sĩ người Mỹ Britney Spears, phát hành ngày 15 tháng 11 năm 2003 bởi Jive Records. Spears bắt đầu viết nhạc cho album khi đang thực hiện chuyến lưu diễn Dream Within a Dream Tour, nhưng chưa tìm ra định hướng cụ thể. Khi chuyến lưu diễn kết thúc vào tháng 7 năm 2002, Spears dự định gác lại sự nghiệp trong sáu tháng; tuy nhiên, quá trình thu âm cho album đã bắt đầu vào tháng 11. Spears thử nghiệm với nhiều nhà sản xuất khác nhau cho In the Zone nhằm tìm ra những đối tác ăn ý, như Bloodshy & Avant, R. Kelly, Trixster, Moby, Guy Sigsworth và the Matrix, bên cạnh sự tham gia góp giọng của Madonna và Ying Yang Twins. Thành quả cuối cùng là một đĩa hát pop và urban với nhiều nhạc cụ từ các thể loại techno và nhạc Trung Đông, trong khi nội dung lời bài hát đề cập đến sự lãng mạn và tiệc tùng cho đến những chủ đề táo bạo hơn như tình dục và thủ dâm. Spears giải thích rằng bản chất tình dục của album là tiềm thức và xuất hiện trong quá trình phát triển album.

Sau khi phát hành, In the Zone nhận được những phản ứng tích cực từ các nhà phê bình âm nhạc, trong đó họ đánh giá cao sự sáng tạo trong phong cách sản xuất, tính thẩm mỹ, chất trữ tình và sự pha trộn nhiều thể loại, mặc dù vẫn tồn tại những chỉ trích xung quanh giọng hát đã qua xử lý của Spears ở một số bản nhạc. Tuy nhiên, In the Zone vẫn gặt hái nhiều thành công thương mại trên toàn cầu, đứng đầu các bảng xếp hạng ở Argentina, Pháp và Mexico, cũng như lọt vào top 10 ở nhiều quốc gia khác, bao gồm vươn đến top 5 ở những thị trường lớn như Canada, Ireland và Nhật Bản. Tại Hoa Kỳ, album ra mắt ở vị trí số một trên bảng xếp hạng Billboard 200 với 609,000 bản được tiêu thụ, sở hữu một trong những lượng đĩa tuần đầu cao nhất năm và giúp Spears trở thành nghệ sĩ nữ đầu tiên có bốn album đầu tay đều ra mắt ở ngôi vị quán quân. Mặc dù phát hành vào cuối năm 2003, In the Zone vẫn là album bán chạy thứ tám trên toàn cầu và đã bán được hơn tám triệu bản tính đến nay.

Bốn đĩa đơn đã được phát hành từ In the Zone. "Me Against the Music" hợp tác với Madonna, đã lọt vào top 10 ở 18 quốc gia nhưng chỉ đạt vị trí thứ 35 trên Billboard Hot 100. "Toxic" đứng đầu bảng xếp hạng ở tám quốc gia và đạt vị trí thứ chín trên Billboard Hot 100, và giúp Spears thắng giải Grammy đầu tiên cho Thu âm nhạc dance xuất sắc nhất. Đĩa đơn thứ ba "Everytime" đạt vị trí thứ 15 trên Billboard Hot 100 và vươn đến top 10 ở hầu hết những nơi khác, trong khi "Outrageous" chỉ đạt vị trí thứ 79 ở Hoa Kỳ. Để quảng bá album, Spears thực hiện chuyến lưu diễn The Onyx Hotel Tour với 54 đêm diễn và đi qua Châu Âu và Bắc Mỹ. Kể từ khi phát hành, In the Zone được nhìn nhận như một bước ngoặt lớn trong hành trình nghệ thuật của Spears và là đỉnh cao trong quá trình chuyển đổi của cô từ một ngôi sao thiếu niên sang một nghệ sĩ trưởng thành hơn. Nhiều nhà phê bình coi đây là album giúp Spears vươn tầm so với những nghệ sĩ cùng thời và đưa cô trở thành nữ nghệ sĩ tiêu biểu của thập niên 2000.

Tổng quan và quá trình phát triển

Vào tháng 10 năm 2001, Spears phát hành album phòng thu thứ ba Britney với hình tượng trưởng thành hơn. Mặc dù được tiêu thụ hơn bốn triệu bản tại Hoa Kỳ, album vẫn bị coi là "bán kém chạy" so với những tác phẩm trước của cô.[1][2] Năm sau, mối quan hệ kéo dài ba năm của cô với ca sĩ nhạc pop Justin Timberlake kết thúc sau nhiều tháng đồn đoán.[3] Sau khi chuyến lưu diễn Dream Within a Dream Tour để quảng bá Britney kết thúc vào tháng 7 năm 2002, Spears tuyên bố tạm nghỉ trong vòng sáu tháng. Tuy nhiên, nữ ca sĩ tiết lộ vào tháng 11 rằng cô đã bắt đầu thực hiện album phòng thu tiếp theo của mình. Spears giải thích: "Thật ra, tôi chỉ nói rằng tôi muốn nghỉ hai hoặc ba tuần. [....] Và cả thế giới kiểu như, 'Trời ơi, [sic] cô ấy biến mất rồi..."[1][4]

Khi ở Châu Âu, Spears gặp William Orbit và Daft Punk để thảo luận về khả năng hợp tác, đồng thời xác nhận rằng những cộng tác viên từ album trước là Darkchild và The Neptunes sẽ tham gia sản xuất. Khi được The Hollywood Reporter hỏi về hướng đi của đĩa hát, Spears trả lời rằng đây là một sự phát triển hữu cơ: "Mọi thứ đều diễn ra tự nhiên theo cách bạn cảm nhận. [...] Điều gì đến, sẽ đến".[5] Ngoài ra, Spears cũng lên kế hoạch gặp gỡ TimbalandMissy Elliott để cùng nhau phát triển âm nhạc của cô.[6] Elliott sau đó tham gia vào quá trình sản xuất tiếp theo với Nisan Stewart cho dự án của Spears; tuy nhiên, không có thành phẩm nào được phát hành.[7] Spears còn làm việc với James Murphy của LCD Soundsystem, nhưng không đạt hiệu quả như mong muốn; Murphy nói: "Cả hai chúng tôi đều nằm trên sàn, một đối một, và viết lời trong một cuốn sổ ghi chú. Cô ấy rất có thiện chí hợp tác, nhưng mọi thứ chẳng đi đến đâu. Rồi cô ấy đi ăn tối và không bao giờ quay lại."[8] Fred Durst, người đứng đầu của Limp Bizkit, đã sáng tác và sản xuất ba bản trip hop được Spears thu âm vào tháng 1 năm 2003. Tuy nhiên, sau khi tin tức về mối quan hệ giữa họ nổ ra, Durst nói với Jive Records rằng anh sẽ không để hãng đĩa sử dụng những bài hát.[9] Vào tháng 3 năm 2003, Lauren Christy thuộc đội sản xuất The Matrix nói về quá trình phát triển album với MTV News, và ví công việc của họ với Spears như album Ray of Light (1998) của Madonna. Scott Spock, cũng đến từ The Matrix, tiếp tục so sánh cô với Madonna bằng cách nói:

Cô ấy đang vươn lên một tầm cao mới trong sự nghiệp của mình. Madonna liên tục nắm bắt những gì có trong các câu lạc bộ để đưa vào tác phẩm của mình và phát hành đến đại chúng. Tôi nghĩ Britney cũng bắt đầu theo đuổi ý tưởng đó, cô ấy muốn làm việc với nhiều thứ khác nhau, thay vì sử dụng cùng một thứ quen thuộc, và áp dụng cho chính mình. [...] Tôi không nghĩ [người hâm mộ của cô ấy] sẽ lo lắng hay khó chịu. Tôi nghĩ họ sẽ thực sự phát cuồng trước những gì sắp xảy ra.[10]

Spears giới thiệu trước một số bài hát cho Quddus Philippe của MTV vào tháng 5 năm 2003, bao gồm "Touch of My Hand", "Brave New Girl" và "Everytime". Spears nhận xét: "Tôi thực sự đã giành nhiều thời gian và có quyền kiểm soát sáng tạo để khiến cho [album mới] trở nên đặc biệt, đặc biệt và đặc biệt."[11] Ngày 27 tháng 8, Spears mở màn giải Video âm nhạc của MTV năm 2003 bằng liên khúc "Like a Virgin" và "Hollywood" với Madonna, Christina AguileraMissy Elliott.[12] Màn trình diễn bắt đầu với cảnh Spears xuất hiện trên chiếc bánh cưới khổng lồ trong bộ váy cưới và che mặt; cô hát vài câu đầu tiên của "Like a Virgin" trước khi Aguilera xuất hiện từ phía sau chiếc bánh và tham gia cùng cô.[13] Madonna sau đó bước ra từ chiếc bánh, mặc áo khoác đen, đội mũ và bắt đầu hát "Hollywood" trước khi khóa môi Spears và Aguilera.[14] Elliott bước ra từ nhà nguyện lễ cưới để thể hiện "Work It" ở giữa tiết mục.[14] Nụ hôn gây ra phản ứng mạnh mẽ từ giới truyền thông. Màn trình diễn được tạp chí Blender xếp vào danh sách 25 khoảnh khắc âm nhạc quyến rũ nhất trong lịch sử truyền hình.[15] Năm 2008, MTV liệt kê màn trình diễn là khoảnh khắc mở màn số một trong lịch sử giải Video âm nhạc của MTV.[16]

Thu âm và sản xuất

Westlake Recording Studios, một trong những địa điểm thu âm In the Zone

Spears hợp tác với nhiều nhà sản xuất nổi tiếng cho In the Zone, như Bloodshy & Avant, R. Kelly, Diddy, Christopher Stewart, Moby, Guy Sigsworth và The Matrix.[17] Cô bắt đầu sáng tác cho album khi đang thực hiện chuyến lưu diễn Dream Within a Dream Tour. Spears nhận xét về quá trình viết lách trong lúc lưu diễn: "Điều duy nhất khiến tôi lo sợ là tôi không biết liệu những bài hát này có thực sự hay không. [Nhưng] Bạn không thể tin bất cứ ai. Bạn phải thấu hiểu cảm xúc của mình." Spears cũng tiết lộ rằng cô là một nhạc sĩ tự truyện, mặc dù nữ ca sĩ không có khuynh hướng tự phơi bày mọi thứ.[1] Sau khi kết thúc chuyến lưu diễn, Spears mời bạn của cô và cũng là ca sĩ hát bè Annet Artani đến nhà cô ở Los Angeles. Họ bắt đầu viết một số bài hát bằng piano và ngay sau đó, họ đến Hồ ComoLombardy, Ý. Một trong số những bản nhạc họ sáng tác có "Everytime", được Artani xác nhận là lời hồi đáp cho "Cry Me a River" của Justin Timberlake, cũng như "Shine", được Spears viết về em gái của cô Jamie Lynn, nhưng không được hoàn thiện.[18] Việc thu âm album bắt đầu vào tháng 11 năm 2002.[1] Ban đầu, Spears chưa tìm ra định hướng cụ thể nào cho album, nhưng nữ ca sĩ đã làm việc với nhiều nhà sản xuất khác nhau nhằm tìm ra những cộng sự ăn ý. Bài hát đầu tiên được thu âm cho In the Zone là "Touch of My Hand", và Spears nói rằng tác phẩm "thực sự mang lại sự cân bằng cho phần còn lại của dự án. Chúng tôi chỉ bắt đầu từ đó."[19] Sau buổi thu âm cho "Everytime" tại Conway Recording Studios ở Los Angeles, Spears giành nhiều lời khen đến Sigsworth: "Về cơ bản, tôi chỉ nói với anh ấy những âm thanh tôi muốn cho bài hát. Và anh ấy thực sự rất đỉnh vì có nhiều nhà sản xuất không hiểu những gì bạn nói. Và bạn kiểu như 'Ồ, đó không phải là điều tôi muốn'. Anh ấy đều làm đúng tất cả. Anh ấy thật tuyệt vời."[18]

Christopher Stewart và Penelope Magnet, thường được gọi chung là RedZone, giới thiệu đến Spears bài hát thứ ba được họ viết và sản xuất, mang tên "Pop Culture Whore". Trong khi quản lý của cô thích bài hát, cô đã từ chối thu âm và nói với họ rằng đây là bản nhạc "quá tệ". Sau khi đồng hành với Spears trong một đêm ở Thành phố New York để "bước vào thế giới của cô", như Magnet giải thích, việc sáng tác sẽ dễ dàng hơn khi họ "viết và biết những gì cô ấy sẽ nói hoặc không, để biết cảm xúc thực sự của cô ấy ở đâu". Stewart và Magnet bắt đầu thực hiện phiên bản đầu tiên của "Me Against the Music"; Stewart nghĩ ra bài hát, trong khi Magnet phát triển giai điệu trên piano và một số lời.[20] Trong các buổi thu âm, Stewart nhớ lại rằng máy điều hòa của phòng thu bị hư trong ba ngày, nhưng Spears "không hề phàn nàn bất cứ điều gì, và đối với tôi điều đó chứng minh vị thế của cô ấy là có lý do."[21] Trong khi luyện tập cho màn trình diễn của họ tại giải Video âm nhạc của MTV năm 2003, Spears mở phiên bản hoàn chỉnh của "Me Against the Music" cho Madonna. Sau khi Madonna nhận xét rằng cô thích bài hát, Spears đã ngỏ ý hợp tác.[22] RedZone sau đó gửi "Me Against the Music" đến Madonna, người đã tự mình sắp xếp và thu âm bổ sung phần giọng của mình, biến bài hát thành một bản song ca.[21] Spears, người hâm mộ nhiều năm của Madonna, đã "vô cùng ngạc nhiên" khi nghe đoạn hát của Madonna. Cô nói "Tôi chỉ muốn cô ấy làm vài việc nhỏ, nhưng cô ấy đã làm rất nhiều thứ."[1] RedZone sau đó tham gia nhiều vào công đoạn hơn trong album, bao gồm đồng sáng tác "Early Mornin'", thu âm giọng nền cho "Outrageous" và sản xuất "The Hook Up".[20]

Hình ảnh xa của một người phụ nữ tóc vàng. Cô ấy đang ngồi trên một chiếc xích đu treo bằng hai mảnh vải. Khói bao quanh cô ấy. Cô ấy mặc một chiếc váy và bắt chéo chân. Cô ấy đang cầm một chiếc micro và nắm lấy chiếc xích đu.
Spears trình diễn "Shadow" trong chuyến lưu diễn The Onyx Hotel Tour năm 2004

The Matrix nhận xét rằng sau khi họ giới thiệu các bài hát đến Spears, cô ấy đã điều chỉnh lại sao cho phù hợp với bản thân, đặc biệt là lời bài hát. Thành viên Lauren Christy nói: "... cô ấy thực sự biết mình muốn gì. Cô ấy biết liệu mình có đang thử điều gì đó không phù hợp. Cô ấy nói, 'Không, đó không phải là tôi.' Cô ấy không phải là người bị ràng buộc bởi một hình ảnh giả tạo nào đó." Christy cũng ấn tượng với khả năng thanh nhạc của Spears trong quá trình thu âm "Shadow".[10] Steve Anderson, Lisa Greene và Stephen Lee viết "Breathe on Me" tại Metrophonic Studios ở London. Trước khi gặp những tác giả khác, Anderson nghĩ ra hai ý tưởng cho những bài hát viết riêng cho Spears: một bản nhạc sáng tác "cho mọi lứa tuổi" và "Breathe on Me", được anh soạn thảo vào buổi sáng ngày họp mặt. Greene và Lee không thích ý tưởng đầu tiên và họ đã viết "Breathe on Me" với Anderson. Bài hát được sản xuất bởi Mark Taylor, người giữ lại phần lớn khâu lập trình do Anderson thực hiện. Với Taylor, Spears thu âm "Breathe on Me" và "And Then We Kiss", nhưng bài hát sau lại không được đưa vào album.[23][24] Những địa điểm thu âm khác cho In the Zone bao gồm Battery Studios, Daddy's House Recordings và The Dojo ở Thành phố New York; 3:20 Studios, Decoy Studios, Pacifique Recording Studios, Record Plant và Westlake Recording Studios ở Los Angeles; The Chocolate Factory, ở Chicago, Triangle Sound Studios ở Atlanta, Olympic Studios ở London và Murlyn Studios ở Stockholm.[25] Trong suốt năm 2003, Spears bắt đầu thử nghiệm các bản nhạc bằng cách phát chúng ở nhiều hộp đêm, như Show ở Thành phố New York.[1] Trước khi album được phát hành, quản lý của Spears, Larry Rudolph nhận xét rằng điều quan trọng là Spears phải tiếp tục thoát khỏi âm hưởng pop truyền thống, chỉ ra "I'm a Slave 4 U" và "Boys" từ Britney như ví dụ cho sự thay đổi trong âm nhạc của cô. Barry Weiss, chủ tịch lúc bấy giờ của Jive Label Group, nói thêm: "Cô ấy đã đạt được những gì mình đặt ra, đó là tạo ra một album cho khán giả trưởng thành, khác với những gì cô ấy đã làm trong ba năm đầu khi tạo ra một album thương mại với những đĩa đơn ăn khách. [...] Đó là đĩa hát cô ấy lẽ ra phải làm lúc này, và cô ấy đã làm được."[19]

Nhạc và lời

Theo Billboard, In the Zone đánh dấu bước chuyển biến trong âm nhạc của Spears. Thay vì nhạc pop truyền thống, album mang hơi hướng u ám hơn và thiên về dance.[19] Spears nói về tổng thể âm nhạc của album với Rolling Stone: "Tôi muốn mô tả đây như một đĩa hát trance đầy rung cảm—thứ bạn có thể nghe mà không phải quan tâm đến cấu trúc bài [...] Tất nhiên là tôi không làm theo '...Baby One More Time' và những bản hit đình đám đó nữa. Tôi nghĩ bản thu âm này chính là thế giới của tôi ngay lúc này. Rất gợi tình, rất gợi cảm. Có lẽ tôi viết về điều đó trong tiềm thức vì đây không phải là những gì tôi có ở hiện tại."[26] Sal Cinquemani của Slant Magazine mô tả âm thanh của In the Zone là "sự pha trộn táo bạo giữa hip-hop và dance",[27] trong khi Amy Schriefer của NPR cho biết album "kết hợp giai điệu house, crunk, Diwalihip hop theo phong cách của Neptunes".[17] Tom Bishop của BBC News nói rằng đĩa hát kết hợp bhaṅgṛā, R&B và hip hop.[28] Caroline Sullivan của The Guardian nhận định In the Zone là "sự va chạm hạnh phúc giữa house, electro-pop mộng mơ và những mối bận tâm cất giấu của Britney [...] khiến cô đứng trên đỉnh cao giữa cô gái thiếu niên trẻ và người phụ nữ tự tin về tình dục."[29] Theo William Shaw của Blender, chủ đề chính của album là "Spears thức tỉnh về giới tính như một người phụ nữ độc thân."[1]

"Tôi chỉ nghĩ một khi bạn bắt đầu ích kỷ với âm nhạc của mình... Tôi đã có một chút điều đó với đĩa hát gần nhất, và tôi thực sự không muốn bộc lộ nhiều đến vậy. Tôi hiểu [khi nhạc sĩ viết về những điều cá nhân]. Nhưng khi mọi thứ đều là về bạn, tôi chỉ nghĩ... Giống như, trong bản thu âm này, một số bài hát, như 'Brave New Girl', tôi có thể liên hệ đến bài hát đó, nhưng đó là cách cá nhân hóa của mỗi người. Đĩa hát này thực sự rất cá nhân, nhưng sẽ không cá nhân đến mức gây sốc - có thể nói là vậy."[26]

— Spears nói về việc viết ra những trải nghiệm cá nhân

In the Zone mở màn với "Me Against the Music", được xây dựng như một bản song ca với Madonna sau khi cô đồng ý góp giọng cho bài hát.[20] Spears và Madonna hát luân phiên nhau ở mỗi câu hát, trong khi Madonna hát riêng ở đoạn bridge. Phần nhạc cụ trong bài hát mang âm hưởng của guitar hip hop và funk. Nội dung lời bài hát đề cập đến niềm vui được thả mình trên sàn nhảy: "I'm up against the speaker / Trying to take on the music / It's like a competition".[a][21] Bản nhạc thứ hai, "I Got That (Boom Boom)", là một bản hip hop theo phong cách Atlanta có sự góp mặt của Ying Yang Twins.[1][30][31] "Showdown" có giai điệu "sôi nổi" và lời bài hát nói về "đấu tranh và hàn gắn những mối quan hệ thể xác", qua những câu hát như "I don't really want to be a tease / But would you undo my zipper, please?".[b] Rolling Stone xếp bản nhạc thuộc thể loại pop-dancehall.[1][30][32] "Breathe on Me" được mô tả là bài hát gợi cảm nhất trong đĩa nhạc và được so sánh với album phòng thu năm 1992 của Madonna Erotica.[33] Trong bản ambient-techno với âm hưởng trip hop, Spears hát: "Oh, it's so hot, and I need some air / And boy, don't stop 'cause I'm halfway there"[c] và "Just put your lips together and blow."[d][27][30][33] "Early Morning" khắc họa một cô gái đang tìm kiếm đàn ông tại một câu lạc bộ ở Thành phố New York, với giai điệu đầy thẩm thấu và nổi bật qua giọng hát nhẹ nhàng của Spears, xen kẽ những tiếng gầm gừ và ngáp xuyên suốt bài hát.[30] Hộp đêm Show cũng được nhắc đến.[1] "Toxic", về sau được Spears gọi là bản nhạc yêu thích nhất trong sự nghiệp của cô, ban đầu được đề xuất cho ca sĩ người Úc Kylie Minogue.[34] Bài hát có sự cộng hưởng giữa hip hop, electropop và nhạc bhangra, đồng thời kết hợp nhiều loại nhạc cụ khác nhau, như trống, synthesizer, dàn dây cao vút và tiếng lướt của guitar.[27][35][36][37] Về mặt ca từ, "Toxic" nói về việc nghiện người yêu.[30]

"Outrageous" lấy cảm hứng từ hip hop, theo MTV, trong đó Spears "thì thầm và rên rỉ [...] với giai điệu dụ rắn mang lại cho bản nhạc một cảm giác kỳ lạ." Lời bài hát đề cập đến chủ nghĩa vật chất và giải trí, trong đó nữ ca sĩ đề cập đến một số điều mang lại niềm vui cho cô ở phần điệp khúc.[30] Trong "Touch of My Hand", được Spears so sánh với "That's the Way Love Goes" (1993) của Janet Jackson, cô hát ở quãng giọng thấp.[11] Bài hát chịu nhiều yếu tố từ âm nhạc Viễn Đông, đặc biệt qua việc sử dụng nhạc cụ Trung Quốcđàn nhị, với lời bài hát đề cập đến thủ dâm: "Into the unknown, I will be bold / I'm going to the places I can be out of control / And I don't want to explain tonight / All the things I've tried to hide."[e][30] "The Hook Up" mang âm hưởng reggae và được Spears hát bằng ngữ điệu Patois của Jamaica.[20][38] Bản power ballad "Shadow" nói về nỗi nhớ da diết của một cô gái khi người yêu đã đi xa.[30] Lời bài hát "Brave New Girl" nói về một cô gái trẻ tìm thấy đam mê và đánh mất sự ức chế. Được sản xuất với giai điệu điện tử vui nhộn, Spears hát đầy sôi nổi và nghe như rap: "She's gonna pack her bags, she's going to find her way, she's going to get right out of this / She don't want New York, she don't want L.A., she's going to find that special kiss."[f][30] Bản Eurodance và pop được lấy cảm hứng từ No Doubt, Blondie và Madonna.[1][27][39] "Everytime" bắt đầu bằng một đoạn piano kết hợp với giọng hát đầy hơi thở của Spears, được xây dựng từ nhẹ nhàng đến mạnh mẽ xuyên suốt bài hát. Nội dung bản nhạc là lời cầu xin tha thứ của một cô gái vì đã vô tình làm tổn thương người yêu cũ. Trong bài hát, Spears giải thích rằng cô cảm thấy không thể tiếp tục những câu như "Everytime I try to fly I fall / Without my wings I feel so small".[g][11] Trong một cuộc phỏng vấn với MTV, Spears nói: "Đó là về sự đau khổ, về mối tình đầu của bạn, tình yêu đích thực đầu tiên của bạn. Đó là điều mọi người có thể liên tưởng đến, vì tất cả các bạn đều có mối tình đầu mà bạn nghĩ rằng sẽ mãi mãi bên nhau suốt phần đời còn lại."[40] Khi được hỏi liệu "Everytime" có phải viết về Justin Timberlake hay không, nữ ca sĩ trả lời: "Tôi sẽ để bài hát tự nói lên điều đó."[41] Bản phối lại Desi Kulcha của Rishi Rich cho "Me Against the Music" được thêm vào tiếng gõ lạch cạch và tiếng hét Punjabi, thay cho giai điệu gốc.[31] Trong bản nhạc kèm theo cho phiên bản quốc tế "The Answer", Spears hát rằng người yêu là câu trả lời cho mọi nhu cầu của cô: "Who can hold me tight, keep me warm through the night? / Who can wipe my tears when it's wrong, make it right? / Who can give me love till I'm satisfied? / Who's the one I need in my life?".[h] Trong "Don't Hang Up" được đưa vào các phiên bản ở Úc, Nhật Bản và Vương quốc Anh, cô cầu xin người yêu qua điện thoại để giúp cô thỏa mãn tình dục khi yêu xa.[42]

Phát hành và quảng bá

Spears trình diễn "Everytime" trong đêm diễn định cư ở Las Vegas Britney: Piece of Me năm 2014

Để quảng bá In the Zone, Spears lần đầu thể hiện đĩa đơn chủ đạo "Me Against the Music" tại NFL Kickoff Live năm 2003 vào ngày 4 tháng 9 năm 2003.[43] Màn trình diễn cũng bao gồm liên khúc "...Baby One More Time" và "I'm a Slave 4 U", kết hợp với pháo hoa.[44][45] Vào ngày 14 tháng 9, Spears tổ chức một đêm nhạc bất ngờ tại Rain Nightclub ở Palms Casino Resort, và trình diễn "Me Against the Music", "Breathe on Me" và liên khúc "...Baby One More Time" và "I'm a Slave 4 U".[46] Ngày 18 tháng 10, cô thể hiện "Me Against the Music" và "Everytime" trên Saturday Night Live.[30] Spears mở màn giải thưởng Âm nhạc Mỹ năm 2003 vào ngày 16 tháng 11 với "Me Against the Music".[47] Ngày hôm sau, buổi hòa nhạc đặc biệt mang tên Britney Spears: In the Zone được phát sóng trên American Broadcasting Company (ABC).[48] Ngày 18 tháng 11–ngày In the Zone được phát hành tại Hoa Kỳ–cô trình diễn "Me Against the Music" và "(I Got That) Boom Boom" trên Total Request Live tại Quảng trường Thời Đại.[49][50] Buổi biểu diễn đặc biệt trên ABC và Total Request Live sau này được đưa vào album video Britney Spears: In the Zone, phát hành ngày 6 tháng 4 năm 2004. Video đứng đầu bảng xếp hạng Music Video Sales ở Hoa Kỳ và được chứng nhận hai đĩa Bạch kim bởi Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ (RIAA).[51][52] "Me Against the Music" cũng được trình diễn trên The Tonight Show with Jay Leno vào ngày 17 tháng 11 năm 2003, và trên Live with Regis and Kelly vào ngày 24 tháng 11.[50] Cô cũng trình diễn "Toxic", " Breathe on Me" và "Me Against the Music" như là nghệ sĩ chủ đạo cho Jingle Ball vào ngày 8 tháng 12, tại Staples Center.[53]

Tháng 11 năm 2003, chủ tịch của Zomba Label Group Barry Weiss trả lời phỏng vấn với Billboard và nói rằng In the Zone sẽ được quảng bá trên cấp độ toàn cầu, sử dụng hết các lĩnh vực truyền thông như báo in và quảng bá trực tuyến, truyền hình, đài phát thanh và video để công chúng nhận thức được việc phát hành album. Ngoài ra, Jive còn làm việc với nhà tiếp thị phong cách sống Karpel Group để tiếp thị album đến cộng đồng người đồng tính. Những nỗ lực tiếp thị trên phạm vi rộng hơn bao gồm việc hợp tác với công ty tiếp thị LidRock, nơi sau khi đặt mua một lon soda tại Sbarro, khách hàng nhận được một chiếc cốc có in bìa album và một chiếc đĩa 3 inch trên nắp có "Brave New Girl" và những bài hát của hai nghệ sĩ khác; vào tháng 12, một đĩa LidRock đã được cập nhật và phát hành, bao gồm bản phối lại của "Me Against the Music" nhưng không có Madonna, cũng như một số bài hát của các nghệ sĩ thuộc Jive như Nick CannonBowling for Soup. Regal Theaters cũng chiếu một đoạn phim ngắn bao gồm cảnh quay ghi lại hậu trường những video ca nhạc của Spears. Hai chiến dịch quảng bá trên truyền hình quốc gia được bắt đầu vào ngày 1 tháng 11–một chiến dịch với video giới thiệu trên Saturday Night Live và một chiến dịch khác độc quyền trên MTV. Không có chiến dịch tài trợ tiếp thị chéo nào được lên kế hoạch, như Larry Rudolph giải thích: "[Lần này] mọi thứ sẽ thiên về âm nhạc hơn là việc liên kết các công ty." Trên thị trường quốc tế, Spears xuất hiện trong bảy chương trình truyền hình đặc biệt và hơn 150 cuộc phỏng vấn ngoài Hoa Kỳ, trong khoảng thời gian 4 tháng.[19] Những màn diễn quốc tế bao gồm việc mở màn giải thưởng Âm nhạc NRJ ở Pháp với "Toxic" vào ngày 24 tháng 1 năm 2004,[54] và thể hiện "Everytime" trong tập ngày 25 tháng 6 của Top of the Pops ở Vương quốc Anh , cũng là màn trình diễn truyền hình cuối cùng để quảng bá album.[55]

Spears kết thúc đêm diễn của The Onyx Hotel Tour với "Me Against the Music" năm 2004

Một chuyến lưu diễn để quảng bá In the Zone được công bố vào tháng 12 năm 2003, ban đầu có tên In the Zone Tour.[56] Tuy nhiên, Spears bị tập đoàn ở San Diego Lite Breeze, Inc. kiện vì xâm phạm nhãn hiệu và bị cấm sử dụng cụm từ "in the zone", do đó tên của chuyến lưu diễn được đổi thành The Onyx Hotel Tour.[57] Chuyến lưu diễn bắt đầu vào ngày 2 tháng 3 năm 2004 tại San Diego Sports Arena. Spears cảm thấy được truyền cảm hứng để tạo ra một buổi diễn với chủ đề khách sạn và sau đó được cô kết hợp với ý tưởng về đá mã não. Sân khấu chịu nhiều ảnh hưởng từ nhạc kịch Broadway, ít công phu hơn những chuyến lưu diễn trước của cô.[42] Danh sách bài hát chủ yếu gồm những bản nhạc từ In the Zone và một số bài hát cũ của cô được làm lại với nhiều thể loại khác nhau như jazz, blues và Latinh. Nhà quảng bá của The Onyx Hotel Tour là Clear Channel Entertainment còn tiếp thị chuyến lưu diễn đến nhiều khán giả trưởng thành hơn so với những buổi diễn trước của cô, trong khi MTV quảng cáo rầm rộ chuyến lưu diễn trên các chương trình truyền hình và trang web trực tuyến của kênh.[58] Mỗi đêm diễn được chia thành bảy phân đoạn: Check-In, Mystic Lounge, Mystic Garden, The Onyx Zone, Security Cameras, Club và phần kết. Check-In gồm những tiết mục múa nâng cao theo chủ đề khách sạn. Mystic Lounge thể hiện sự tri ân đến Cabaret và nhiều vở nhạc kịch khác, đồng thời phối lại một số bản hit đầu tay của Spears. Mystic Garden được xây dựng sân khấu với cảm hứng từ rừng rậm. The Onyx Zone thể hiện những tiết mục ballad kết hợp nhào lộn. Security Cameras là phần gợi cảm nhất của chương trình, trong đó Spears và các vũ công của cô mô phỏng những hành vi tình dục khác nhau. Club mang đến màn trình diễn mang hới hướng đô thị, trong khi phần kết bao gồm một đoạn trục trặc hệ thống được dàn dựng và Spears biểu diễn trong bộ trang phục màu đỏ. Chuyến lưu diễn nhận được những đánh giá trái chiều từ các nhà phê bình, trong đó họ đánh giá cao tính giải trí của chương trình nhưng cũng vấp phải nhiều chỉ trích vì đêm diễn "trông như một quang cảnh hơn là một buổi hòa nhạc thực sự".[59] The Onyx Hotel Tour gặt hái nhiều thành công về mặt thương mại, thu về 34 triệu đô-la.[60] Vào tháng 3, Spears gặp chấn thương đầu gối trên sân khấu khiến cô phải dời lại hai đêm diễn.[61] Ngày 8 tháng 6, Spears lại bị ngã và bị thương ở đầu gối khi đang quay video ca nhạc cho "Outrageous". Cô phải trải qua cuộc phẫu thuật và phần còn lại của chuyến lưu diễn đã bị hủy bỏ.[62]

Đĩa đơn

"Me Against the Music" được phát hành dưới dạng đĩa đơn mở đường cho In the Zone vào ngày 14 tháng 10 năm 2003. Ban đầu, Jive Records muốn chọn "Outrageous" làm đĩa đơn đầu tiên, nhưng Spears đã thuyết phục hãng đĩa phát hành "Me Against the Music".[63] Bài hát nhận được những đánh giá trái chiều từ các nhà phê bình âm nhạc; một số cho rằng đây là một bản nhạc dance mạnh mẽ, trong khi số khác cho rằng bài hát khá mờ nhạt và thất vọng.[64][65] "Me Against the Music" đạt được nhiều thành công thương mại trên toàn cầu, đứng đầu các bảng xếp hạng ở Úc, Đan Mạch, Hungary, Ireland và Tây Ban Nha, cũng như European Hot 100 Singles. Đĩa đơn cũng đạt vị trí thứ hai ở Canada, Ý, Na Uy và Vương quốc Anh, đồng thời lọt vào top 5 ở nhiều quốc gia khác; tuy nhiên, "Me Against the Music" chỉ đạt vị trí thứ 35 trên Billboard Hot 100 ở Hoa Kỳ, trở thành đĩa đơn mở đường đạt thứ hạng thấp nhất của Spears.[66][67] Bài hát sau đó thắng giải Đĩa đơn Dance của năm tại giải thưởng âm nhạc Billboard năm 2004.[68] Trong video ca nhạc cho bài hát được đạo diễn bởi Paul Hunter, Spears đuổi bắt Madonna trong một hộp đêm.[22]

Spears trình diễn đĩa đơn thứ hai từ In the Zone "Toxic" trong chuyến lưu diễn Femme Fatale Tour năm 2011

"Toxic" được chọn làm đĩa đơn thứ hai của In the Zone vào ngày 12 tháng 1 năm 2004, và nhận được sự hoan nghênh rộng rãi từ giới phê bình. Mặc dù Jive đề xuất chọn "(I Got That) Boom Boom" hoặc "Outrageous", Spears quyết định chọn "Toxic".[69] Bài hát tiếp nhận những thành công lớn về mặt thương mại trên toàn cầu, lọt vào top 5 ở 15 quốc gia, đồng thời đứng đầu bảng xếp hạng ở Úc, Canada, Hungary, Na Uy và Vương quốc Anh.[70][71] Tại Hoa Kỳ, "Toxic" đạt vị trí thứ chín trên Billboard Hot 100, trở thành đĩa đơn đầu tiên của cô lọt vào top 10 kể từ "Oops!... I Did It Again" (2000).[66] Được đạo diễn bởi Joseph Kahn, video ca nhạc đi kèm bài hát miêu tả Spears như một đặc vụ bí mật đang tìm kiếm một lọ chất độc màu xanh lá. Sau khi tìm được, cô vào một căn hộ và đầu độc người bạn trai lăng nhăng của mình. Video cũng xen kẽ những cảnh Spears khỏa thân với những viên kim cương gắn trên cơ thể.[72] "Toxic" giúp Spears thắng giải Grammy đầu tiên cho Thu âm nhạc dance xuất sắc nhất tại lễ trao giải thường niên lần thứ 47, và được coi là một trong những bài hát trứ danh của cô.[73]

"Everytime" được phát hành như đĩa đơn thứ ba từ album vào ngày 10 tháng 5 năm 2004, và được giới phê bình đánh giá cao.[74] Bài hát lọt vào top 5 ở hầu hết các quốc gia, cũng như đứng đầu các bảng xếp hạng ở Úc, Hungary, Ireland và Vương quốc Anh, và đứng thứ 15 trên Billboard Hot 100.[66][75] Video ca nhạc cho "Everytime" do David LaChapelle đạo diễn, khắc họa Spears như một ngôi sao bị các tay săn ảnh săn lùng, sau đó chết đuối trong bồn tắm khi cô bị thương và chảy máu ở đầu. Trong bệnh viện, các bác sĩ không thể cứu cô trong lúc một đứa trẻ được sinh ra ở phòng bên cạnh, đồng nghĩa với việc cô đã tái sinh.[76] Kịch bản ban đầu được xây dựng là Spears tự sát vì sử dụng ma túy quá liều, nhưng cốt truyện đã bị loại bỏ sau khi nhận được nhiều lời chỉ trích từ một số tổ chức, những người coi đây là một hành vi tán dương việc tự sát.[77]

"Outrageous" được chọn làm đĩa đơn thứ tư và cũng là đĩa đơn cuối cùng của In the Zone vào ngày 13 tháng 7 năm 2004, sau khi bản nhạc được chọn làm bài hát chủ đề cho bộ phim Catwoman (2004).[78] "Outrageous" nhận được những đánh giá trái chiều từ các nhà phê bình, một số khen ngợi âm thanh vui nhộn và ghi nhận những ảnh hưởng của MichaelJanet Jackson, trong khi số khác cảm thấy bài hát "thật đáng quên".[31][65] Do không được quảng bá nhiều, "Outrageous" trở thành đĩa đơn đạt thứ hạng thấp nhất trong album, vươn đến vị trí thứ 79 trên Billboard Hot 100.[66] Được đạo diễn bởi Dave Meyers, video ca nhạc cho bài hát được quay ở Thành phố New York vào ngày 8 tháng 6, nhưng Spears gặp chấn thương đầu gối khi đang ghi hình và phải phẫu thuật nội soi khớp. Video sau đó bị hủy, cũng như phần còn lại của The Onyx Hotel Tour và sự xuất hiện trong nhạc phim Catwoman.[62][79]

Đánh giá chuyên môn

Xếp hạng chuyên môn
Điểm trung bình
NguồnĐánh giá
Metacritic66/100[80]
Nguồn đánh giá
NguồnĐánh giá
About.com[36]
AllMusic[64]
Blender[65]
E!B+[81]
Entertainment WeeklyB−[82]
The Guardian[39]
Rolling Stone[32]
Slant Magazine[27]
SpinB−[83]
Vibe[38]

Sau khi phát hành, In the Zone đa phần nhận được những phản ứng tích cực từ các nhà phê bình âm nhạc. Tại Metacritic, chuyên trang thống kê điểm trung bình dựa trên các bài đánh giá chuyên môn, album nhận được điểm trung bình là 66 trên tổng số 100 điểm, dựa trên 13 bài đánh giá.[80] Jason Shawhan của About.com đưa ra đánh giá tích cực, cho rằng mặc dù sắc thái của album rất gợi cảm, kết quả lại là một tuyên ngôn cá nhân từ Spears. Anh cũng nói thêm: "Đây chính là điểm khác biệt về đĩa nhạc mới của Spears, vì không album nào trước đây của cô tạo ra bất kỳ cảm xúc bền vững nào ngoài niềm vui của một đĩa nhạc pop hay. Tôi nhớ Max Martin, chắc chắn rồi, nhưng có cảm giác như Spears đã chú ý đến La Ciccone. Nói cách khác, đây chính là True Blue của Britney."[36] Stephen Thomas Erlewine của AllMusic nói rằng album "hoàn toàn cho các câu lạc bộ, nhưng bất chấp một số gợi ý về neo-electro và The Neptunes, âm nhạc có vẻ không hiện đại lắm—nghe giống như những đoạn cắt từ năm 1993 hoặc Bedtime StoriesRay of Light của Madonna. Về mặt sản xuất, những bài hát không chỉ hoàn thiện mà còn đa dạng hơn nhiều so với bất kỳ album nào trước đây của cô."[64] Ruth Mitchell của BBC gọi "Early Mornin'" là bản nhạc hay nhất album, nhưng nói thêm: "Đáng buồn thay, những nỗ lực chứng tỏ sự trưởng thành mới khám phá của cô lại là điều lấn át và che mờ tất cả những điều tốt đẹp về In The Zone."[84] Mim Udovitch của Blender nhận xét: "Bản thu âm này là một bước chuyển không ngần ngại từ những bài hát của trái tim đến cơ thể [...] Không còn là một cô gái, được giải phóng khỏi kiếp nô lệ, giờ đây khi hoàn toàn là một người phụ nữ, cô ấy là một nhân tình khá thuyết phục."[65]

David Browne của Entertainment Weekly gọi "Brave New Girl" và "Touch of My Hand" là những khoảnh khắc đẹp nhất và thẳng thắn nhất của In the Zone, nhưng nói thêm rằng "Trong đĩa CD kỷ niệm chặng đường trưởng thành của cô, Spears vẫn giữ thái độ xa cách và chìm đắm. Với tất cả sự tự do của mình, cô ấy vẫn đang tìm đường đi."[82] Jon Pareles của Rolling Stone cho biết: "Giọng [Spears'] đã được xử lý quá kỹ, thể chất gần như biến mất. [...] In the Zone đem đến thoát y, tổng đài tình dục một cách dễ chịu nhưng trống rỗng. Ngoài những giai điệu lấp lánh, Spears nghe có vẻ thân mật như một con búp bê thổi phồng."[85] Sal Cinquemani của Slant Magazine phát biểu: "Album thứ tư của Britney, In The Zone, như một chiếc bánh xốp nướng chín với sự kết hợp táo bạo giữa nhạc hip-hop và dance, xóa sạch những dấu vết cuối cùng của quá khứ bubblegum-pop của cô. [...] Phần lớn In The Zone là một bức thư tình to lớn, dồn dập gửi đến sàn nhảy, điều này khiến sự tham gia của Madonna [...] càng trở nên phù hợp hơn."[27] Dorian Lynskey của The Guardian nhận xét: "Không như những album trước của Britney, In the Zone không có những bản hát lại kém chất lượng, chỉ có 57 loại nhạc pop công nghiệp. Ngoài ra, còn có hip-hop miền Nam, deep house, R&B theo phong cách Neptunes, giai điệu Diwali phổ biến và quan trọng nhất là sự xuất hiện của Madonna."[39] Jason King của Vibe coi đây là "Một đĩa hát dance cực kỳ tự tin và cũng minh họa cho sự phát triển của Spears với tư cách một nhạc sĩ."[38]

Thành tựu

Năm Đề cử cho Giải thưởng Kết quả
2004 Giải Đĩa vàng Nhật Bản Album Rock quốc tế của năm[86] Đoạt giải
2004 Premios Oye! Album Tiếng Anh của năm[87] Đề cử
2004 Giải thưởng Âm nhạc Billboard Nữ nghệ sĩ album Billboard 200 của năm (Britney Spears)[88] Đề cử
2005 Giải Grammy Thu âm nhạc dance xuất sắc nhất ("Toxic")[73] Đoạt giải

Diễn biến thương mại

Hình ảnh hai người hôn nhau. Bên trái, người đàn ông mặc đồ lót và giày bốt. Bên phải, người phụ nữ tóc vàng mặc nội y, tất và giày cao gót.
Spears, bên cạnh một trong những vũ công của cô, ở màn trình diễn "Breathe on Me" trong chuyến lưu diễn The Onyx Hotel Tour năm 2004

Tại Hoa Kỳ, In the Zone ra mắt ở vị trí số một trên bảng xếp hạng Billboard 200 vào ngày 6 tháng 12 năm 2003, với doanh số tuần đầu là 609,000 bản.[89][90] Đây là doanh số tuần đầu cao nhất năm 2003 của một nữ nghệ sĩ lúc bấy giờ, trước khi bị Alicia Keys vượt qua với The Diary of Alicia Keys hai tuần sau đó.[91][92] Spears cũng trở thành nữ nghệ sĩ thứ hai trong lịch sử Billboard có bốn album quán quân liên tiếp, sau Janet Jackson, người có nhiều album số một nhất vào thời điểm đó với năm album. In the Zone được chứng nhận ba đĩa Bạch kim bởi Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ (RIAA), công nhận lượng đĩa xuất xưởng đạt ba triệu đơn vị tương đương album.[93] Đĩa hát đứng vị trí thứ tám trên bảng xếp hạng Billboard 200 cuối năm 2004.[94] Tính đến năm 2016, album bán được hơn ba triệu bản tại Hoa Kỳ, theo Nielsen SoundScan.[95] Tại Canada, album ra mắt ở vị trí thứ hai trên Canadian Albums Chart, với doanh số tuần đầu là 31,000 đơn vị,[96] và được chứng nhận ba đĩa Bạch kim bởi Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Canada (CRIA) cho 300,000 bản được xuất xưởng.[97]

Tại Vương quốc Anh, In the Zone ra mắt ở vị trí thứ 14 trên UK Albums Chart, và đạt vị trí thứ 13 trong tuần thứ 34 và trải qua 43 tuần trên bảng xếp hạng.[98] Đĩa hát được chứng nhận Bạch kim bởi Ngành Công nghiệp ghi âm Anh (BPI) vào tháng 3 năm 2004.[99] Album đạt thứ hạng cao hơn ở khắp châu Âu, lọt vào top 10 ở Áo, Bỉ, Cộng hòa Séc, Đan Mạch, Đức, Hy Lạp, Hungary, Ireland, Hà Lan, Thụy Điển và Thụy Sĩ, đồng thời đạt vị trí thứ ba trên European Top 100 Albums.[100][101] Tại Pháp, In the Zone ra mắt ở vị trí số một, trở thành album quán quân thứ hai của cô sau Oops!... I Did It Again (2000), và được chứng nhận hai đĩa Vàng bởi Tổ chức Xuất bản Âm thanh Quốc gia (SNEP) vào tháng 12 năm 2004.[100] Album được Liên đoàn Công nghiệp ghi âm Quốc tế (IFPI) chứng nhận Bạch kim, sau khi bán được một triệu bản trên khắp châu Âu.[102]

Ở khu vực Mỹ Latinh, In the Zone được chứng nhận Bạch kim ở Argentina và Mexico.[103][104] Tại Úc, album ra mắt và đạt vị trí thứ mười trên ARIA Top 100 Albums,[105] và được chứng nhận Bạch kim bởi Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc (ARIA) vào năm 2004.[106] Tại New Zealand, In the Zone ra mắt ở vị trí thứ 28, trước khi đạt vị trí thứ 25 vào tháng 4 năm 2004, và được chứng nhận Vàng bởi Hiệp hội Công nghiệp ghi âm New Zealand (RIANZ).[107][108] Album đạt thành công về mặt thương mại trên khắp châu Á, ra mắt ở vị trí số một tại Hàn Quốc.[109] Tại Nhật Bản, album ra mắt ở vị trí thứ ba trên Oricon Albums Chart, bán được 59,128 bản trong tuần đầu.[110] Đĩa hát được chứng nhận Bạch kim bởi Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Nhật Bản (RIAJ) vào tháng 12 năm 2003.[111] Theo Liên đoàn Công nghiệp ghi âm Quốc tế (IFPI), In the Zone là album bán chạy thứ tám trong năm 2003.[112]

Ảnh hưởng và di sản

"Tôi không phải kiểu người hay đổ lỗi cho người khác, nhưng tôi thấy không phải lúc nào những điều được làm cho tôi cũng mang lại lợi ích tốt nhất. Nhìn lại, tôi cho rằng album thứ 4 của mình nên đi theo chủ trương 'tối giản vẫn hơn'."

—Spears nói về In the Zone vào tháng 11 năm 2004.[113]

In the Zone được nhiều nhà phê bình nhìn nhận như một sự biến hóa của Spears. Stephen Thomas Erlewine của AllMusic nhận xét: "Nếu Britney năm 2001 là một album chuyển tiếp, khắc họa Spears vào thời điểm cô không còn là một cô gái nhưng chưa hẳn là phụ nữ, thì trong tác phẩm tiếp theo năm 2003, In the Zone, là nơi cô kết thúc hành trình đó và biến thành Britney, một người phụ nữ trưởng thành." Erlewine cũng so sánh Spears với người đồng nghiệp Christina Aguilera, giải thích rằng cả hai đều đánh đồng sự trưởng thành với tình dục rõ ràng và âm thanh mạnh mẽ của các hộp đêm, nhưng trong khi Aguilera "có vẻ ngoài như một cô gái nhiều dục vọng, Britney lại là cô hàng xóm phóng túng ở trường đại học, uống rượu và hút thuốc, khiêu vũ và quan hệ hơi liều lĩnh, vì đây là lần đầu tiên cô có thể tự thỏa mãn."[64] Sal Cinquemani của Slant Magazine phát biểu: "Đối với một cô gái dường như luôn quá gợi cảm so với lứa tuổi của mình, In the Zone cho thấy Britney đã hoàn toàn tương thích với hình tượng đó. Sự quyến rũ của cô gái nhỏ thực sự đã phát huy tác dụng—có lẽ bởi vì, ở tuổi 21, cuối cùng cô đã trở thành phụ nữ."[27] Jason King của Vibe cho biết album giúp giới thiệu sự thay đổi của Spears, "không còn là một cô gái nữa mà là người phụ nữ khiến bất kỳ người đàn ông nào cũng có thể chạm đến."[38]

Sau khi kết thúc đột ngột chuyến lưu diễn The Onyx Hotel Tour do chấn thương đầu gối, Spears bắt đầu ngưng biểu diễn một thời gian dài,[114] và không phát hành album phòng thu nào cho đến Blackout vào tháng 10 năm 2007.[115] Cô bắt đầu mối quan hệ với Kevin Federline, người cô gặp khi đang lưu diễn vào tháng 4 năm 2004 và kết hôn vào ngày 18 tháng 9.[116][i] Album tuyển tập đầu tiên của cô Greatest Hits: My Prerogative được phát hành vào tháng 11, ra mắt ở vị trí thứ tư trên bảng xếp hạng Billboard 200. Spears không hề quảng bá album, mặc dù phát hành hai đĩa đơn quốc tế ăn khách–"My Prerogative" và "Do Somethin'". Vào tháng 9 năm 2005, Spears sinh con trai đầu lòng Sean Preston,[118] và sinh con trai thứ hai Jayden James một năm sau đó.[119] Vào tháng 11 năm 2006, nữ ca sĩ đệ đơn ly hôn Federline,[116] với lý do có những khác biệt không thể hòa giải; vụ ly hôn được hoàn tất vào tháng 7 năm 2007.[120] Trong khoảng thời gian đó, Spears dính vào một loạt bê bối truyền thông và bị suy sụp tinh thần, nổi bật nhất là việc cạo đầu vào tháng 2 năm 2007.[121]

Một số nhà phê bình ghi nhận tầm ảnh hưởng của In the Zone đến nhạc pop thập niên 2000. Năm 2009, Amy Schriefer của NPR liệt kê album vào danh sách "50 Bản thu âm Quan trọng nhất Thập kỷ". Gọi đây là "lá cờ đầu cho nhạc pop những năm 2000", cô coi Spears là công cụ lý tưởng cho âm thanh tương lai, vì cô đang cố gắng thoát khỏi quá khứ teen pop của mình. Schriefer ca ngợi "Toxic" và "Everytime", đồng thời nói thêm: "Với lịch sử kéo dài hàng thập kỷ về nỗi ám ảnh người nổi tiếng, sự tò mò của các tay săn ảnh, và những quan điểm mâu thuẫn về tình dục phụ nữ và tình mẫu tử được viết trên cơ thể của Spears, thì lịch sử của thập kỷ về nhạc pop được chế tác hoàn hảo trong tác phẩm của cô."[17] Trong dịp kỷ niệm 15 năm ra mắt album vào năm 2018, Jason Lipshutz của Billboard khẳng định album "báo hiệu một hướng đi trưởng thành hơn cho Spears khi cô bắt đầu khám phá nhạc điện tửhip-hop. Và lời bài hát của bản thu âm — ám chỉ cuộc chia tay của cô với Justin Timberlake và đẩy lùi những chỉ trích của giới truyền thông nhắm đến cô — tôn vinh mức độ độc lập và thẳng thắn mới của nữ ca sĩ."[122]

Bảo tàng pop-up The Zone ở Los Angeles, tôn vinh "những bài hát, video và trang phục mang tính biểu tượng của Spears thông qua buổi chụp ảnh để đăng lên Instagram, màn hình tương tác và nội dung cá nhân hóa được kích hoạt bằng dây đeo cổ tay RFID đặc biệt", được đặt tên theo album và khai trương vào tháng 1 năm 2020.[123]

Danh sách bài hát

In the Zone – Bản tiêu chuẩn
STTNhan đềSáng tácSản xuấtThời lượng
1."Me Against the Music" (hợp tác với Madonna)
  • Britney Spears
  • Madonna
  • Christopher "Tricky" Stewart
  • Thabiso "Tab" Nkhereanye
  • Penelope Magnet
  • Terius Nash
  • Gary O'Brien
  • Trixster
  • Magnet[a]
3:43
2."(I Got That) Boom Boom" (hợp tác với Ying Yang Twins)
  • Roy "Royalty" Hamilton
  • Chyna Royal
  • Deongelo Holmes
  • Eric Jackson
Hamilton4:51
3."Showdown"
  • Spears
  • Cathy Dennis
  • Christian Karlsson
  • Pontus Winnberg
  • Henrik Jonback
Bloodshy & Avant3:18
4."Breathe on Me"
  • Stephen Lee
  • Steve Anderson
  • Lisa Greene
Mark Taylor3:43
5."Early Mornin'"
  • Spears
  • Moby
  • Stewart
  • Magnet
3:45
6."Toxic"
  • Dennis
  • Karlsson
  • Winnberg
  • Jonback
Bloodshy & Avant3:21
7."Outrageous"R. Kelly
3:22
8."Touch of My Hand"
  • Spears
  • Jimmy Harry
  • Balewa Muhammad
  • Shep Solomon
  • Harry
  • Solomon
4:19
9."The Hook Up"
  • Spears
  • Stewart
  • Nkhereanye
  • Magnet
  • Trixster
  • Magnet[a]
3:54
10."Shadow"
  • Spears
  • Lauren Christy
  • Scott Spock
  • Graham Edwards
  • Charlie Midnight
The Matrix3:45
11."Brave New Girl"
Brian and Josh3:30
12."Everytime"
  • Spears
  • Annet Artani
Guy Sigsworth3:53
13."Me Against the Music" (Rishi Rich's Desi Kulcha Remix; hợp tác với Madonna; bản nhạc bổ sung)
  • Spears
  • Madonna
  • Stewart
  • Nkhereanye
  • Magnet
  • Nash
  • O'Brien
  • Trixster
  • Magnet[a]
  • Rishi Rich[c]
4:31
Tổng thời lượng:49:55
In the Zone – Bản quốc tế (bản nhạc bổ sung)[25]
STTNhan đềSáng tácSản xuấtThời lượng
14."The Answer"
  • Combs
  • Leslie
3:55
Tổng thời lượng:53:50
In the Zone – Bản tại Úc, Nhật Bản, Ý và Vương quốc Anh (bản nhạc bổ sung)[124]
STTNhan đềSáng tácSản xuấtThời lượng
15."Don't Hang Up"
  • Spears
  • Kierulf
  • Schwartz
Brian and Josh4:02
Tổng thời lượng:57:52
In the Zone – Bản đặc biệt của Walmart.com tại Hoa Kỳ (nhạc số kèm theo)[125]
STTNhan đềSáng tácSản xuấtThời lượng
14."I've Just Begun (Having My Fun)"
  • Spears
  • Michelle Bell
  • Karlsson
  • Winnberg
  • Jonback
Bloodshy & Avant3:23
15."Me Against the Music" (Bloodshy & Avant's Chix Remix)
  • Spears
  • Stewart
  • Nkhereanye
  • Magnet
  • Nash
  • O'Brien
  • Trixster
  • Magnet[a]
  • Bloodshy & Avant[c]
5:17
Tổng thời lượng:58:35
In the Zone – Bản DVD-Audio (video kèm theo)[126]
STTNhan đềĐạo diễnThời lượng
14."Me Against the Music" (hợp tác với Madonna)Paul Hunter4:03
15."Toxic"Joseph Kahn3:32
16."Thư viện ảnh"  
17."Lời bài hát trên màn hình"  
In the Zone – Bản DualDisc (DVD kèm theo)[127]
STTNhan đềĐạo diễnThời lượng
1."Toxic"Kahn3:32
2."Everytime"David LaChapelle4:16
3."Chris Cox Megamix[j]"
3:53
Tổng thời lượng:11:55
In the Zone – Đĩa mở rộng tại Trung Quốc[128]
STTNhan đềSáng tácSản xuấtThời lượng
1."Me Against the Music" (hợp tác với Madonna)
  • Spears
  • Madonna
  • Stewart
  • Nkhereanye
  • Magnet
  • Nash
  • O'Brien
  • Trixster
  • Magnet[a]
3:43
2."Toxic"
  • Dennis
  • Karlsson
  • Winnberg
  • Jonback
Bloodshy & Avant3:18
3."Shadow"
  • Spears
  • Christy
  • Spock
  • Edwards
  • Midnight
The Matrix3:44
4."Everytime"
  • Spears
  • Stamatelatos
Sigsworth3:50
5."Me Against the Music" (Rishi Rich's Desi Kulcha Remix; hợp tác với Madonna)
  • Spears
  • Madonna
  • Stewart
  • Nkhereanye
  • Magnet
  • Nash
  • O'Brien
4:29
6."The Answer"
  • Spears
  • Leslie
  • Combs
  • Combs
  • Leslie
3:56
Tổng thời lượng:23:00
Ghi chú
  • ^[a] nghĩa là đồng sản xuất.
  • ^[b] nghĩa là sản xuất giọng hát.
  • ^[c] nghĩa là sản xuất bản phối lại.
Ghi chú nhạc mẫu
  • "Toxic" chứa nhạc mẫu của "Tere Mere Beech Mein" bởi Lata Mangeshkar và S. P. Balasubrahmanyam từ bộ phim năm 1981 Ek Duuje Ke Liye.

Xếp hạng

Xếp hạng tuần

Bảng xếp hạng (2003–2004) Vị trí
cao nhất
Album Argentina (CAPIF)[129] 1
Album Úc (ARIA)[105] 10
Album Áo (Ö3 Austria)[130] 10
Album Bỉ (Ultratop Vlaanderen)[131] 7
Album Bỉ (Ultratop Wallonie)[132] 5
Album Canada (Billboard)[133] 2
Album Cộng hòa Séc (ČNS IFPI)[134] 6
Album Đan Mạch (Hitlisten)[135] 8
Album Hà Lan (Album Top 100)[136] 9
Top 100 Album Châu Âu (Billboard)[101] 3
Album Phần Lan (Suomen virallinen lista)[137] 15
Album Pháp (SNEP)[100] 1
Album Đức (Offizielle Top 100)[138] 2
Album Hy Lạp (IFPI)[139] 5
Album Hungary (MAHASZ)[140] 7
Album Iceland (Tónlist)[141] 8
Album Ireland (IRMA)[142] 4
Album Ý (FIMI)[143] 16
Album Nhật Bản (Oricon)[144] 3
Album Malaysia Quốc tế (RIM)[145] 4
Album Mexico (AMPROFON)[109] 1
Album New Zealand (RMNZ)[107] 25
Album Na Uy (VG-lista)[146] 11
Album Ba Lan (ZPAV)[147] 23
Album Bồ Đào Nha (AFP)[148] 11
Album Scotland (OCC)[149] 12
Album Singapore (RIAS)[150] 2
Album Hàn Quốc Quốc tế (RIAK)[151] 1
Album Tây Ban Nha (PROMUSICAE)[152] 14
Album Thụy Điển (Sverigetopplistan)[153] 8
Album Thụy Sĩ (Schweizer Hitparade)[154] 6
Album Anh Quốc (OCC)[98] 13
Hoa Kỳ Billboard 200[155] 1

Xếp hạng cuối năm

Bảng xếp hạng (2003) Vị trí
Album Pháp (SNEP)[156] 75
Album Hàn Quốc Quốc tế (MIAK)[157] 5
Album Thụy Sĩ (Schweizer Hitparade)[158] 84
Album Anh Quốc (OCC)[159] 145
Toàn cầu (IFPI)[112] 8
Bảng xếp hạng (2004) Vị trí
Album Úc (ARIA)[160] 49
Album Áo (Ö3 Austria)[161] 36
Album Bỉ (Ultratop Flanders)[162] 86
Album Bỉ (Ultratop Wallonia)[163] 93
Album Hà Lan (Album Top 100)[164] 84
Top 100 Album Châu Âu (Billboard)[165] 23
Album Pháp (SNEP)[166] 68
Album Đức (Offizielle Top 100)[167] 35
Album Hungary (MAHASZ)[168] 17
Album Nhật Bản (Oricon)[169] 40
Album Hàn Quốc Quốc tế (MIAK)[170] 3
Album Thụy Sĩ (Schweizer Hitparade)[171] 49
Album Anh Quốc (OCC)[172] 51
Hoa Kỳ Billboard 200[94] 8

Xếp hạng thập niên

Bảng xếp hạng (2000–2009) Vị trí
Hoa Kỳ Billboard 200[173] 143

Chứng nhận

Quốc gia Chứng nhận Doanh số
Argentina (CAPIF)[103] Bạch kim 40.000^
Úc (ARIA)[106] Bạch kim 70.000^
Áo (IFPI Áo)[174] Bạch kim 30.000*
Bỉ (BEA)[175] Vàng 25.000*
Brasil (Pro-Música Brasil)[176] Vàng 50.000*
Canada (Music Canada)[177] 3× Bạch kim 300.000^
Czech Republic 10,000[178]
Đan Mạch (IFPI Đan Mạch)[179] 2× Bạch kim 40.000double-dagger
Phần Lan (Musiikkituottajat)[180] Vàng 15,052[180]
Pháp (SNEP)[181] 2× Vàng 200.000*
Đức (BVMI)[182] Vàng 150.000^
Hy Lạp (IFPI Hy Lạp)[139] Vàng 10.000^
Hungary (Mahasz)[183] Vàng 10.000^
Nhật Bản (RIAJ)[111] Bạch kim 250.000^
México (AMPROFON)[104] Bạch kim 100.000^
New Zealand (RMNZ)[108] Vàng 7.500^
Na Uy (IFPI)[184] Vàng 20.000*
Ba Lan (ZPAV)[185] Vàng 20.000double-dagger
Bồ Đào Nha (AFP)[186] Vàng 20.000^
Nga (NFPF)[187] 2× Bạch kim 40.000*
Singapore (RIAS)[188] Vàng 5.000*
Hàn Quốc (KMCA)[189] 130,025[k]
Tây Ban Nha (PROMUSICAE)[190] Vàng 50.000^
Thụy Điển (GLF)[191] Vàng 30.000^
Thụy Sĩ (IFPI)[192] Vàng 20.000^
Anh Quốc (BPI)[99] Bạch kim 540,000[193]
Hoa Kỳ (RIAA)[93] 3× Bạch kim 3.000.000double-dagger
Tổng hợp
Châu Âu (IFPI)[102] Bạch kim 1.000.000*

* Chứng nhận dựa theo doanh số tiêu thụ.
^ Chứng nhận dựa theo doanh số nhập hàng.
double-dagger Chứng nhận dựa theo doanh số tiêu thụ+phát trực tuyến.

Lịch sử phát hành

Khu vực Ngày Định dạng Hãng đĩa Ct.
Nhật Bản 15 tháng 11, 2003 CD BMG [144]
Úc 17 tháng 11, 2003 [194]
Đức [138]
Tây Ban Nha [195]
Vương quốc Anh Jive
[196]
Canada 18 tháng 11, 2003 BMG [197]
Hoa Kỳ Jive [198][199]
20 tháng 4, 2004 DVD-Audio
[200]
Canada 26 tháng 4, 2005 DualDisc Sony BMG [201]
Hoa Kỳ Jive [202]
Đức 29 tháng 8, 2005 Sony BMG [203]
Vương quốc Anh 26 tháng 9, 2005 Jive [204]
Ý 14 tháng 10, 2005 Sony BMG [205]
Hoa Kỳ 9 tháng 8, 2019 Đĩa than (Độc quyền tại Urban Outfitters)[l] Legacy [209]
31 tháng 3, 2023 Đĩa than [210]
Úc 28 tháng 4, 2023 Sony Music [211]
Châu Âu [212][213][214][215]

Xem thêm

Ghi chú

  1. ^ Tạm dịch: "Đối đầu cùng dàn loa / Cố gắng chế ngự âm nhạc này / Như một cuộc cạnh tranh"
  2. ^ Tạm dịch: "Tôi không muốn chủ động đâu / Nhưng làm ơn cởi khóa kéo của tôi được không?"
  3. ^ Tạm dịch: "Ôi, nóng quá, tôi cần ít không khí / Và này chàng trai, đừng dừng lại vì tôi đến nửa đường rồi"
  4. ^ Tạm dịch: "Chỉ cần mím môi lại và thổi đi"
  5. ^ Tạm dịch: "Đến một nơi xa lạ, tôi sẽ táo bạo hơn / Tôi sẽ đến những nơi tôi có thể mất kiểm soát / Và tối nay, tôi không muốn giải thích / Tất cả những điều tôi cố gắng che giấu"
  6. ^ Tạm dịch: "Cô ấy sẽ dọn hành lý, cô ấy sẽ tìm đường, cô ấy sẽ thoát khỏi chuyện này / Cô ấy không muốn New York, cô ấy không muốn LA, cô ấy muốn tìm nụ hôn đặc biệt đó."
  7. ^ Tạm dịch: "Mỗi lần định bay lên, tôi lại rơi xuống / Không có đôi cánh, tôi cảm mình thật nhỏ nhoi."
  8. ^ Tạm dịch: "Ai có thể ôm tôi thật chặt, giữ ấm cho tôi suốt đêm? / Ai có thể lau nước mắt cho tôi khi tôi sai, và thay đổi sao cho đúng? / Ai có thể cho tôi tình yêu đến khi tôi hài lòng? / Ai là người tôi cần trong đời?"
  9. ^ Trong khi Spears và Federline tổ chức lễ cưới vào ngày 18 tháng 9 năm 2004, họ vẫn chưa chính thức kết hôn cho đến ba tuần sau đó, vào ngày 6 tháng 10, do sự chậm trễ trong việc hoàn tất thỏa thuận tiền hôn nhân của cặp đôi.[117]
  10. ^ "Chris Cox Megamix" bao gồm "...Baby One More Time", "(You Drive Me) Crazy", "I'm a Slave 4 U", "Oops!... I Did It Again", "Stronger", "Everytime" và "Toxic".
  11. ^ Tại Hàn Quốc, In the Zone bán được 71,145 bản trong hai tháng cuối năm 2003 và bán thêm 58,880 bản trong suốt năm 2004, theo Hiệp hội Công nghiệp Nội dung Âm nhạc Hàn Quốc, nâng tổng doanh số thành 130,025 bản.[157][170]
  12. ^ Hai phiên bản đĩa than bổ sung sau đó được phân phối độc quyền thông qua Urban Outfitters, lần lượt vào tháng 10 năm 2019 và tháng 9 năm 2020.[206][207] Ngoài ra, In the Zone cũng được tái bản dưới dạng băng cassette, độc quyền tại nhà bán lẻ này, vào tháng 9 năm 2020.[208]

Tham khảo

  1. ^ a b c d e f g h i j k Shaw, William (20 tháng 12 năm 2003). “Britney Busts Loose!”. Blender. ISSN 1534-0554.
  2. ^ Vaziri, Aidin (20 tháng 11 năm 2003). “There's more to Britney than the porn persona – just listen to her wonderfully awful new album”. San Francisco Chronicle. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 9 năm 2021. Truy cập ngày 16 tháng 4 năm 2022.
  3. ^ Moss, Corey (28 tháng 5 năm 2002). “Britney Avoids Vice, Justin Talk At Sin City Tour Opener”. MTV News. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 12 năm 2004. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2022.
  4. ^ Moss, Corey (5 tháng 11 năm 2002). “Britney Spears' Hiatus Is History”. MTV News. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2022.
  5. ^ D'Angelo, Joe (6 tháng 12 năm 2002). “Britney Spears To Work With Rodney Jerkins Again”. MTV. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2022.
  6. ^ Gardner, Chris (2 tháng 12 năm 2002). “Turning 21, turning it on”. The Hollywood Reporter. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 5 năm 2008. Truy cập ngày 15 tháng 3 năm 2014.
  7. ^ Renzer, David (8 tháng 11 năm 2002). “NEWS DETAIL: UMPG Announces Major New Urban Crossover Writer/Producer Signings – Andre Harris & Vidal Davis > Nisan Stewart”. Universal Music Publishing Group. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 10 năm 2019. Truy cập ngày 15 tháng 3 năm 2014.
  8. ^ Robinson, Peter (7 tháng 4 năm 2016). “The 50 most amazing moments in pop history (that never actually happened)”. The Guardian. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 4 năm 2018. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2018.
  9. ^ Kaufman, Gil (27 tháng 2 năm 2003). “Durst Dishes Alleged Britney Nookie On Howard Stern Show”. MTV. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 2 năm 2020. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2022.
  10. ^ a b Moss, Corey; Reid, Shaheem (6 tháng 3 năm 2003). “Who's Been Hooking Up With Britney? We Got 'Em To Talk”. MTV. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2022.
  11. ^ a b c Vineyard, Jennifer; Philippe, Quddus (30 tháng 5 năm 2003). “Britney Previews LP, Denies Rumors Of 'Cry Me A River' Response”. MTV. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2022.
  12. ^ Moss, Corey (23 tháng 8 năm 2003). “Madonna Smooches With Britney And Christina; Justin, Coldplay Win Big At VMAs”. MTV. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 7 năm 2017. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2022.
  13. ^ Wiederhorn, Jon (29 tháng 8 năm 2003). “Beyonce, 50, Mary J., Metallica Overshadowed By Two Little Kisses”. MTV. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2022.
  14. ^ a b “MTV VMA 2003 highlights – Madonna performance video”. MTV. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 8 năm 2008. Truy cập ngày 28 tháng 1 năm 2011.
  15. ^ Collis, Clark (15 tháng 2 năm 2004). “The 25 Sexiest Music Moments in TV History!”. Blender. ISSN 1534-0554.
  16. ^ Vena, Jocelyn (24 tháng 8 năm 2008). “The Top 10 Opening Moments In VMA History: From Madonna To The Present”. MTV. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 5 năm 2022. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2022.
  17. ^ a b c Schriefer, Amy (16 tháng 11 năm 2009). “The 50 Most Important Recordings Of The Decade: S-Z”. NPR. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 1 năm 2011. Truy cập ngày 26 tháng 2 năm 2011.
  18. ^ a b Stern, Bradley (tháng 2 năm 2010). “Annet Artani: From "Everytime" to "Alive"”. MuuMuse. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 2 năm 2010. Truy cập ngày 23 tháng 4 năm 2010.
  19. ^ a b c d “Britney Sexes Up The Music”. Billboard. 115 (47). 23 tháng 11 năm 2003. ISSN 0006-2510. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 29 tháng 1 năm 2011.
  20. ^ a b c d Moss, Corey (15 tháng 10 năm 2003). “Getting Aggressive With Britney Pays Off For RedZone”. MTV. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 9 năm 2014. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2022.
  21. ^ a b c Hiatt, Brian (2 tháng 10 năm 2003). “Secrets of the Madonna/Britney collaboration”. Entertainment Weekly. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 3 năm 2008. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2022.
  22. ^ a b Vena, Jocelyn (20 tháng 12 năm 2009). “Britney Spears And Madonna 'Tease' Fans In 'Me Against The Music' Video”. MTV. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2022.
  23. ^ Stern, Bradley (tháng 9 năm 2010). “Glitter and Diamonds: Interview with...Steve Anderson! (Part One)”. MuuMuse. Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2010.
  24. ^ Stern, Bradley (2 tháng 9 năm 2011). “Daily B: The Original Version of 'And Then We Kiss' Surfaces”. MuuMuse. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 10 năm 2011. Truy cập ngày 5 tháng 9 năm 2011.
  25. ^ a b Spears, Britney (2003). In the Zone (CD). Jive Records. 82876571292.
  26. ^ a b Binelli, Mark (2003). “Sometimes It's Hard To Be a Woman”. Rolling Stone. ISSN 0035-791X.
  27. ^ a b c d e f g Cinquemani, Sal (12 tháng 11 năm 2003). “Review: Britney Spears, In The Zone”. Slant Magazine. Keith Uhlich. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2022.
  28. ^ Bishop, Tom (21 tháng 11 năm 2003). “Bhangra Britney gets lost in music”. BBC News. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 9 tháng 8 năm 2020.
  29. ^ Sullivan, Caroline (29 tháng 4 năm 2020). “Britney Spears: where to start in her back catalogue”. The Guardian. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 9 tháng 8 năm 2020.
  30. ^ a b c d e f g h i j Vineyard, Jennifer (22 tháng 10 năm 2003). “Britney Album Preview: Sex, Sex And More Sex”. MTV. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2022.
  31. ^ a b c Sanneh, Kelefa (17 tháng 11 năm 2003). “Oops! It's Album Time Again, Britney”. The New York Times. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 13 tháng 4 năm 2010.
  32. ^ a b Pareles, Jon (19 tháng 11 năm 2003). “In the Zone”. Rolling Stone. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2022.
  33. ^ a b Rosa, Christopher (27 tháng 11 năm 2019). “Britney Spears's 10 Best (and Worst) Songs of All Time”. Glamour. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 2 năm 2020. Truy cập ngày 25 tháng 2 năm 2020.
  34. ^ “Britney Spears Breaks 5 Million Followers Barrier on Twitter”. Access Hollywood. 30 tháng 5 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2022.
  35. ^ “Britney Spears – The Singles Collection (album review)”. Sputnikmusic. 29 tháng 12 năm 2009. Truy cập ngày 11 tháng 9 năm 2010.
  36. ^ a b c Shawhan, Jason (2003). “Kylie Minogue – Body Language and Britney Spears – In the Zone”. About.com. The New York Times Company. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 3 năm 2013. Truy cập ngày 15 tháng 11 năm 2010.
  37. ^ D., Spence (16 tháng 11 năm 2004). “Britney Spears Greatest Hits: My Prerogative”. IGN. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 6 năm 2011. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2022.
  38. ^ a b c d “Britney Spears – In the Zone”. Vibe. 12 (1). 25 tháng 10 năm 2003. ISSN 1070-4701. Truy cập ngày 14 tháng 10 năm 2010.[liên kết hỏng]
  39. ^ a b c Lynskey, Dorian (14 tháng 11 năm 2003). “CD: Britney Spears, In the Zone”. The Guardian. UK. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2022.
  40. ^ Vineyard, Jennifer (2 tháng 3 năm 2004). “Britney Checking Into Onyx Hotel Wearing Rubberlike Outfit”. MTV. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 9 năm 2014. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2022.
  41. ^ Sanchez, Rowena Joy A. (4 tháng 10 năm 2009). “'This one's for you': Ex-music couples sing of their love woes”. Manila Bulletin. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 10 năm 2009. Truy cập ngày 3 tháng 5 năm 2010.
  42. ^ a b Vineyard, Jennifer (26 tháng 2 năm 2004). “Britney Spears Releasing Diddy-Produced Song On DVD”. MTV. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2022.
  43. ^ Huhn, Mary (6 tháng 9 năm 2003). “Britney fumbles the ball”. New York Post. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2022.
  44. ^ “For The Record: Quick News On Britney Spears, 50 Cent, White Stripes, Beck, Simple Plan, Buzzcocks & More”. MTV. 24 tháng 11 năm 2003. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 4 năm 2010. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2022.
  45. ^ Ollison, Rashod D (5 tháng 9 năm 2003). “NFL kicks off the season with sizzle”. The Baltimore Sun. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 6 năm 2021. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2022.
  46. ^ Vineyard, Jennifer (15 tháng 9 năm 2003). “Britney Romps On Bed, Loses Her Shirt At Surprise Vegas Show”. MTV. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2022.
  47. ^ Kaufman, Gil (17 tháng 11 năm 2003). “50 Cent, Luther Vandross Take Home Multiple AMAs; Many Artists Skip Out”. MTV. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2022.
  48. ^ Brown, Joel (17 tháng 11 năm 2003). “Britney Spears previews new album on ABC special before football”. The Dispatch. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2010.
  49. ^ Vena, Jocelyn (6 tháng 8 năm 2009). “Britney Spears' Top 10 Best TV Performances”. MTV. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2022.
  50. ^ a b “In the Zone: The highly-anticipated new album from Britney Spears”. Billboard. 115 (47). 22 tháng 11 năm 2003. ISSN 0006-2510. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2010.
  51. ^ “Music Video Sales”. Billboard. Prometheus Global Media. 24 tháng 4 năm 2004. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 10 năm 2017. Truy cập ngày 5 tháng 12 năm 2013.
  52. ^ “American video certifications – Britney Spears – In the Zone”. Recording Industry Association of America. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 1 năm 2023. Truy cập ngày 22 tháng 1 năm 2023.
  53. ^ Moss, Corey (8 tháng 12 năm 2003). “Steamy Britney Set Brings Holiday Concert To An Anticlimax”. MTV. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2022.
  54. ^ Traci (10 tháng 1 năm 2009). “Blast From the Past: NRJ Awards – Britney Spears”. BritneySpears.com. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 4 năm 2009. Truy cập ngày 26 tháng 8 năm 2010.
  55. ^ Sloan, Billy (5 tháng 8 năm 2004). “Email: The Top Five”. Sunday Mail. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 2 tháng 5 năm 2010.
  56. ^ Vineyard, Jennifer (2 tháng 12 năm 2003). “Britney Spears Lines Up Tour For In The Zone”. MTV. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2022.
  57. ^ Chang, Samantha (24 tháng 4 năm 2004). “News Line: The Week in Brief”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2009.
  58. ^ Ault, Susanne (7 tháng 2 năm 2004). “CCE Steers Spears' Tour Towards Changing Audience”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 25 tháng 12 năm 2009.
  59. ^ Sitt, Pamela (13 tháng 3 năm 2004). “Concert Review: Britney's all flash, no substance”. The Seattle Times. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 6 năm 2011. Truy cập ngày 24 tháng 12 năm 2009.
  60. ^ “Britney Spears' Biography”. Fox News. 31 tháng 7 năm 2008. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 10 năm 2021. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2022.
  61. ^ Silverman, Stephen M. (22 tháng 3 năm 2004). “Britney to Check Back In to Onyx Hotel”. People. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2022.
  62. ^ a b Silverman, Stephen M. (16 tháng 6 năm 2004). “Britney Cancels Tour Due to Bad Knee”. People. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 5 năm 2022. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2022.
  63. ^ Strauss, Neil (2 tháng 11 năm 2003). “Growing Up – Britney Did It Again”. The New York Times. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 2 tháng 5 năm 2010.
  64. ^ a b c d Erlewine, Stephen Thomas (18 tháng 11 năm 2003). “In the Zone – Britney Spears”. AllMusic. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 3 năm 2011. Truy cập ngày 15 tháng 11 năm 2010.
  65. ^ a b c d Udovitch, Mim (18 tháng 11 năm 2003). “In the Zone”. Blender. ISSN 1534-0554.
  66. ^ a b c d “Britney Spears Chart History (Hot 100)”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 20 tháng 8 năm 2010.
  67. ^ “ultratop.be – Britney Spears feat. Madonna – Me Against The Music”. Ultratop 50. 2003. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 25 tháng 2 năm 2011.
  68. ^ Susman, Gary (9 tháng 12 năm 2004). “Usher dominates Billboard Music Awards”. Entertainment Weekly. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2022.
  69. ^ “For The Record: Quick News On Britney Spears, Jay-Z, Gwyneth And Chris, Weezer, 3 Doors Down & More”. MTV. 8 tháng 12 năm 2003. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2022.
  70. ^ “Britney Spears – Toxic (song)”. Ultratop 50. Hung Medien. 2004. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 20 tháng 8 năm 2010.
  71. ^ “Archívum” (bằng tiếng Hungary). Mahasz. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 8 năm 2013. Truy cập ngày 20 tháng 8 năm 2010.
  72. ^ Kaufman, Gil (25 tháng 8 năm 2004). “Yes, Britney Really Is Naked In The 'Toxic' Video: VMA Lens Recap”. MTV. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2022.
  73. ^ a b Schriefer, Amy (13 tháng 11 năm 2009). “The Decade In Music: Britney Spears' 'Toxic' (2004)”. NPR. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2022.
  74. ^ Mueller, Gavin (18 tháng 11 năm 2003). “Britney Spears – In the Zone – Review”. Stylus Magazine. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 9 năm 2012. Truy cập ngày 23 tháng 3 năm 2010.
  75. ^ “Britney Spears – Everytime (song)”. Ultratop 50. 2004. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 4 tháng 5 năm 2010.
  76. ^ Vineyard, Jennifer (12 tháng 4 năm 2004). “Britney Says Controversial New Video Is About Reincarnation”. MTV. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2022.
  77. ^ Vineyard, Jennifer (12 tháng 3 năm 2004). “Britney Spears Removes Suicide Plot From 'Everytime' Video”. MTV. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2022.
  78. ^ Vineyard, Jennifer (1 tháng 6 năm 2004). “Britney's Catsuit May Come In Handy For Next Single, But Not For China”. MTV. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2022.
  79. ^ Vineyard, Jennifer (9 tháng 6 năm 2004). “Britney Busts Knee, Complicating Video Shoot And Tour”. MTV. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2022.
  80. ^ a b “In The Zone by Britney Spears”. Metacritic. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 9 năm 2016. Truy cập ngày 22 tháng 10 năm 2016.
  81. ^ “Britney Spears "In the Zone"”. E! Online. 18 tháng 11 năm 2003. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 11 năm 2003. Truy cập ngày 24 tháng 1 năm 2023.
  82. ^ a b Browne, David (21 tháng 11 năm 2003). “In the Zone”. Entertainment Weekly. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2022.
  83. ^ Ganz, Caryn (tháng 12 năm 2003). “Get in the Zone”. Spin. 19 (12): 130. ISSN 0886-3032.
  84. ^ Mitchell, Ruth (17 tháng 11 năm 2003). “Britney Spears In The Zone Review”. BBC. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 8 năm 2022. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2022.
  85. ^ Pareles, Jon (19 tháng 11 năm 2003). “In the Zone by Britney Spears”. Rolling Stone. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2022.
  86. ^ “Recording Industry Association of Japan - Related Data”. riaj.or.jp. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 4 năm 2012. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2017.
  87. ^ “Julieta is heard! very good”. El Siglodetorreon (bằng tiếng Tây Ban Nha). Premios Oye!. 29 tháng 9 năm 2004. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 6 năm 2021. Truy cập ngày 8 tháng 12 năm 2019.
  88. ^ “2004 Billboard Music Awards Finalists”. Billboard. Billboard Media, LLC. 30 tháng 11 năm 2004. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2022.
  89. ^ “Britney In Her 'Zone' Atop Billboard 200”. Billboard. 26 tháng 11 năm 2003. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2022.
  90. ^ “Top 200 Albums”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2022.
  91. ^ Wiederhorn, Jon (26 tháng 8 năm 2003). “Britney Moans Her Way To The Top Of The Albums Chart”. MTV. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2022.
  92. ^ “Keys Unlocks Second No. 1 Debut”. Billboard. 2 tháng 12 năm 2003. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2022.
  93. ^ a b “Chứng nhận album Hoa Kỳ – Britney Spears – In the Zone” (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ.
  94. ^ a b “2004 YEAR END CHARTS”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 4 năm 2017. Truy cập ngày 27 tháng 9 năm 2017.
  95. ^ Trust, Gary (17 tháng 7 năm 2016). “Ask Billboard: Britney Spears' Career Sales & How Big a Hit Will 'Make Me' Be?”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 7 năm 2016. Truy cập ngày 17 tháng 7 năm 2016.
  96. ^ Williams, Johns (7 tháng 11 năm 2007). “Britney's No. 1 again”. Jam!. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 25 tháng 2 năm 2011.Quản lý CS1: URL hỏng (liên kết)
  97. ^ “Canadian Recording Industry Association (CRIA): Gold & Platinum – May 2004”. Canadian Recording Industry Association. tháng 5 năm 2004. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 10 năm 2010. Truy cập ngày 25 tháng 2 năm 2011.
  98. ^ a b "Britney Spears | Artist | Official Charts" (bằng tiếng Anh). UK Albums Chart. Truy cập July 4, 2017.
  99. ^ a b “Chứng nhận album Anh Quốc – Britney Spears – In the Zone” (bằng tiếng Anh). British Phonographic Industry.
  100. ^ a b c "Lescharts.com – Britney Spears – In The Zone" (bằng tiếng Pháp). Hung Medien. Truy cập July 4, 2017.
  101. ^ a b “Billboard Eurocharts” (PDF). Billboard: 55. 13 tháng 12 năm 2003. OCLC 29800226. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 15 tháng 6 năm 2020. Truy cập ngày 15 tháng 6 năm 2020 – qua American Radio History.
  102. ^ a b “IFPI Platinum Europe Awards – 2004”. Liên đoàn Công nghiệp ghi âm Quốc tế. Truy cập ngày 21 tháng 1 năm 2014.
  103. ^ a b “Britney Spears – Discos de Oro y Platino”. Argentine Chamber of Phonograms and Videograms Producers. 1 tháng 12 năm 2004. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 25 tháng 2 năm 2011.
  104. ^ a b “Certificaciones” (bằng tiếng Tây Ban Nha). Asociación Mexicana de Productores de Fonogramas y Videogramas. Truy cập ngày 23 tháng 8 năm 2022. Nhập Britney Spears ở khúc dưới tiêu đề cột ARTISTA  và In the Zone ở chỗ điền dưới cột tiêu đề TÍTULO'.
  105. ^ a b "Australiancharts.com – Britney Spears – In The Zone" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập July 4, 2017.
  106. ^ a b “ARIA Charts – Accreditations – 2004 Albums” (PDF) (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc. Truy cập ngày 21 tháng 1 năm 2014.
  107. ^ a b "Charts.nz – Britney Spears – In The Zone" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập July 4, 2017.
  108. ^ a b “Chứng nhận album New Zealand – Britney Spears – In the Zone” (bằng tiếng Anh). Recorded Music NZ. Truy cập ngày 21 tháng 1 năm 2014.
  109. ^ a b “Britney Spears In The Zone #1 Selling Album in the Country”. Sony Music Mediaroom. 26 tháng 11 năm 2003. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 12 năm 2022. Truy cập ngày 22 tháng 1 năm 2023.
  110. ^ “Weekly Albums Chart” (bằng tiếng Nhật). Oricon. Livedoor. 2 tháng 11 năm 2003. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 25 tháng 2 năm 2011.
  111. ^ a b “Chứng nhận album Nhật Bản – ブリトニー・スピアーズ – イン・ザ・ゾーン” (bằng tiếng Nhật). Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Nhật Bản. Chọn 2003年12月 ở menu thả xuống
  112. ^ a b “Top 50 Global Best Selling Albums for 2003” (PDF). International Federation of the Phonographic Industry. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 17 tháng 11 năm 2008. Truy cập ngày 30 tháng 1 năm 2023.
  113. ^ Vineyard, Jennifer (5 tháng 11 năm 2004). “Britney, Back From Honeymoon, Posts Another Letter”. MTV. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2022.
  114. ^ Vineyard, Jennifer (16 tháng 10 năm 2004). “Britney Spears Announces She's Taking A Break From Her Career”. MTV News. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 1 năm 2023. Truy cập ngày 24 tháng 1 năm 2023.
  115. ^ Nichols, Michelle (23 tháng 10 năm 2007). “Britney set for "Blackout" hit despite herself”. Reuters. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 1 năm 2023. Truy cập ngày 24 tháng 1 năm 2023.
  116. ^ a b Vineyard, Jennifer (8 tháng 11 năm 2006). “Britney & Kevin Timeline: Those Were The Days ...”. MTV News. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 1 năm 2023. Truy cập ngày 24 tháng 1 năm 2023.
  117. ^ Heller 2007, tr. 80
  118. ^ Vineyard, Jennifer (15 tháng 9 năm 2005). “Britney Spears Gives Birth To A Baby Boy”. MTV News. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 1 năm 2023. Truy cập ngày 24 tháng 1 năm 2023.
  119. ^ “Britney Spears gives birth to second child”. Access Hollywood. 12 tháng 9 năm 2006. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 1 năm 2023. Truy cập ngày 24 tháng 1 năm 2023 – qua Today.
  120. ^ Pasquini, Maria (4 tháng 4 năm 2019). “Everything to Know About Britney Spears and Kevin Federline's Relationship Through the Years”. People. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 1 năm 2023. Truy cập ngày 24 tháng 1 năm 2023.
  121. ^ “Shock new details about Britney's infamous 2007 breakdown”. Fox News. 4 tháng 11 năm 2019. Truy cập ngày 24 tháng 1 năm 2023 – qua News.com.au.
  122. ^ Lipshutz, Jason (12 tháng 11 năm 2018). “Britney Spears' 'In The Zone' Turns 15: Ranking All the Songs”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 20 tháng 1 năm 2023.
  123. ^ Chan, Tim (2 tháng 2 năm 2020). “Get 'In the Zone': Inside the Britney Spears Pop-Up Experience in LA”. Rolling Stone. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 1 năm 2023. Truy cập ngày 20 tháng 1 năm 2023.
  124. ^ Spears, Britney (2003). In the Zone (CD). Jive Records. 82876576442.
  125. ^ Vineyard, Jennifer (20 tháng 8 năm 2004). “Track That Britney Left Out Of The Zone Is A Hit Online”. MTV News. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 6 năm 2022. Truy cập ngày 22 tháng 1 năm 2023.
  126. ^ Spears, Britney (2004). In the Zone (DVD-Audio). Jive Records. 82876537489.
  127. ^ Spears, Britney (2005). In the Zone (DualDisc). Jive Records. 82876681342.
  128. ^ 小甜甜布兰妮:流行禁区 In The Zone(CD) 布兰妮 (Britney) 亚马逊中国|dead link|date=January 2024
  129. ^ “Britney Spears In The Zone #1 Selling Album in the Country”. Sony Music Mediaroom. 26 tháng 11 năm 2003. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 7 năm 2019. Truy cập ngày 11 tháng 7 năm 2019.
  130. ^ "Austriancharts.at – Britney Spears – In The Zone" (bằng tiếng Đức). Hung Medien. Truy cập July 4, 2017.
  131. ^ "Ultratop.be – Britney Spears – In The Zone" (bằng tiếng Hà Lan). Hung Medien. Truy cập July 4, 2017.
  132. ^ "Ultratop.be – Britney Spears – In The Zone" (bằng tiếng Pháp). Hung Medien. Truy cập July 4, 2017.
  133. ^ "Britney Spears Chart History (Canadian Albums)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập July 4, 2017.
  134. ^ "Czech Albums – Top 100". ČNS IFPI. Ghi chú: Trên trang biểu đồ này, chọn {{{date}}} trên trường này ở bên cạnh từ "Zobrazit", và sau đó nhấp qua từ để truy xuất dữ liệu biểu đồ chính xác. Truy cập October 6, 2017.
  135. ^ "Danishcharts.dk – Britney Spears – In The Zone" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập October 6, 2017.
  136. ^ "Dutchcharts.nl – Britney Spears – In The Zone" (bằng tiếng Hà Lan). Hung Medien. Truy cập October 6, 2017.
  137. ^ "Britney Spears: In The Zone" (bằng tiếng Phần Lan). Musiikkituottajat – IFPI Finland. Truy cập July 4, 2017.
  138. ^ a b "Offiziellecharts.de – Britney Spears – In The Zone" (bằng tiếng Đức). GfK Entertainment Charts. Truy cập November 26, 2022.
  139. ^ a b “Top 50 Greek and Foreign Albums” (bằng tiếng Hy Lạp). IFPI Greece. 5 tháng 6 năm 2004. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 6 năm 2004.
  140. ^ “Hungarian Top 40 Albums Chart”. Mahasz. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 4 năm 2009. Truy cập ngày 13 tháng 7 năm 2009.
  141. ^ “Tonlist Top 30” (bằng tiếng Iceland). Morgunblaðið. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 11 tháng 4 năm 2023.
  142. ^ "GFK Chart-Track Albums: Week 6, 2004". Chart-Track. IRMA. Truy cập October 6, 2017.
  143. ^ "Italiancharts.com – Britney Spears – In The Zone" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập July 4, 2017.
  144. ^ a b “イン・ザ・ゾーン” [In the Zone] (bằng tiếng Nhật). Japan: Oricon. 15 tháng 11 năm 2003. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 11 năm 2022. Truy cập ngày 26 tháng 11 năm 2022.
  145. ^ “Malaysia Retail Sales Chart (9 December 2003) - International Albums”. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 12 năm 2003. Truy cập ngày 14 tháng 11 năm 2023.
  146. ^ "Norwegiancharts.com – Britney Spears – In The Zone" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập July 4, 2017.
  147. ^ “Oficjalna Lista Sprzedažy” (bằng tiếng Ba Lan). OLiS. 1 tháng 12 năm 2003. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 11 năm 2021. Truy cập ngày 26 tháng 2 năm 2011.
  148. ^ "Portuguesecharts.com – Britney Spears – In The Zone" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập October 6, 2017.
  149. ^ "Official Scottish Albums Chart Top 100" (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. Truy cập September 13, 2018.
  150. ^ “RIAS CHART FOR WEEK ENDING 21 November 2003”. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 12 năm 2003. Truy cập ngày 14 tháng 11 năm 2023.
  151. ^ “자료제공:(사)한국음반산업협회/이 자료는당협회와 상의없이 가공,편집을금합니다 - 2003.11월 - POP 음반 판매량” (bằng tiếng Hàn). RIAK. 1 tháng 12 năm 2003. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 11 năm 2004.
  152. ^ Salaverrie 2005
  153. ^ "Swedishcharts.com – Britney Spears – In The Zone" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập July 4, 2017.
  154. ^ "Swisscharts.com – Britney Spears – In The Zone" (bằng tiếng Đức). Hung Medien. Truy cập May 4, 2018.
  155. ^ "Britney Spears Chart History (Billboard 200)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập July 4, 2017.
  156. ^ “Classement Albums - année 2003” (bằng tiếng Pháp). SNEP. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 9 năm 2012.
  157. ^ a b 자료제공:(사)한국음반산업협회/이 자료는당협회와 상의없이 가공,편집을금합니다 - 2003년 - POP 음반 판매량 (bằng tiếng Hàn). MIAK. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 7 năm 2007. Truy cập ngày 5 tháng 9 năm 2020.
  158. ^ “Swiss End of Year Charts 2003”. Swiss Music Charts. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 26 tháng 2 năm 2011.
  159. ^ “UK Year-end Albums 2003” (PDF). The Official Charts Company. tr. 4. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 17 tháng 4 năm 2012. Truy cập ngày 26 tháng 2 năm 2011.
  160. ^ “ARIA Charts – End Of Year Charts – Top 100 Albums 2004”. Australian Recording Industry Association. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 26 tháng 2 năm 2011.
  161. ^ “Jahreshitparade 2004 – austriancharts.at” (bằng tiếng Đức). Ö3 Austria. 26 tháng 12 năm 2004. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 11 năm 2010. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2017.
  162. ^ “Jaaroverzichten 2004”. Ultratop. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 10 năm 2015. Truy cập ngày 26 tháng 2 năm 2011.
  163. ^ “Rapports Annuel 2004”. Ultratop. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 26 tháng 2 năm 2011.
  164. ^ “Jaaroverzichten – Album 2004” (bằng tiếng Hà Lan). MegaCharts. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 8 năm 2014. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2017.
  165. ^ “Eurochart Archive for Year End Singles”. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 29 tháng 11 năm 2019.
  166. ^ “Classement Albums - année 2004” (bằng tiếng Pháp). SNEP. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 9 năm 2012. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2017.
  167. ^ “Top 100 Album-Jahrescharts”. GfK Entertainment (bằng tiếng Đức). offiziellecharts.de. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 4 năm 2017. Truy cập ngày 27 tháng 2 năm 2017.
  168. ^ “Összesített album- és válogatáslemez-lista – chart-pozíció alapján 2004”. Mahasz.hu (bằng tiếng Hungary). Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 10 năm 2011.
  169. ^ 年間 アルバムランキング – 2004年度 [Annual Album Ranking – 2004] (bằng tiếng Nhật). Oricon. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 7 năm 2019. Truy cập ngày 13 tháng 7 năm 2019.
  170. ^ a b 자료제공:(사)한국음반산업협회/이 자료는당협회와 상의없이 가공,편집을금합니다 - 2004년 총결산 POP음반 판매량 (bằng tiếng Hàn). MIAK. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 6 năm 2007.
  171. ^ “Swiss End of Year Charts 2008”. Swiss Music Charts. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 26 tháng 2 năm 2011.
  172. ^ “UK Year-end Albums 2004” (PDF). The Official Charts Company. tr. 3. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 31 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 26 tháng 2 năm 2011.
  173. ^ “Best of the 2000s Billboard 200 Albums”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 2 tháng 12 năm 2011.
  174. ^ “Chứng nhận album Áo – Britney Spears – In the Zone” (bằng tiếng Đức). IFPI Áo. Truy cập ngày 21 tháng 1 năm 2014.
  175. ^ “Ultratop − Goud en Platina – albums 2003” (bằng tiếng Hà Lan). Ultratop. Hung Medien. Truy cập ngày 21 tháng 1 năm 2014.
  176. ^ “Chứng nhận album Brasil – Britney Spears – In the Zone” (bằng tiếng Bồ Đào Nha). Pro-Música Brasil. Truy cập ngày 21 tháng 1 năm 2014.
  177. ^ “Chứng nhận album Canada – Britney Spears – In the Zone” (bằng tiếng Anh). Music Canada. Truy cập ngày 21 tháng 1 năm 2014.
  178. ^ Vlasák, Vladimír (22 tháng 12 năm 2003). “Králi roku jsou Bílá, Nohavica a Kabát: NEJPRODÁVANĚJŠÍ ALBA” (bằng tiếng Séc). iDNES.cz. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 3 năm 2021. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2021.
  179. ^ “Chứng nhận album Đan Mạch – Britney Spears – In the Zone” (bằng tiếng Đan Mạch). IFPI Đan Mạch. Truy cập ngày 5 tháng 7 năm 2023.
  180. ^ a b “Chứng nhận album Phần Lan – Britney Spears – In the Zone” (bằng tiếng Phần Lan). Musiikkituottajat – IFPI Finland. Truy cập ngày 21 tháng 1 năm 2014.
  181. ^ “Chứng nhận album Pháp – Britney Spears – In the Zone” (bằng tiếng Pháp). Syndicat National de l'Édition Phonographique. Truy cập ngày 21 tháng 1 năm 2014.
  182. ^ “Gold-/Platin-Datenbank (Britney Spears; 'In The Zone')” (bằng tiếng Đức). Bundesverband Musikindustrie. Truy cập ngày 1 tháng 5 năm 2021.
  183. ^ “Adatbázis – Arany- és platinalemezek – 2004” (bằng tiếng Hungary). MAHASZ. Truy cập ngày 21 tháng 1 năm 2014.
  184. ^ “IFPI Norsk platebransje Trofeer 1993–2011” (bằng tiếng Na Uy). IFPI Na Uy. Truy cập ngày 23 tháng 8 năm 2022.
  185. ^ “OLiS - oficjalna lista wyróżnień” (bằng tiếng Ba Lan). Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Ba Lan. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2024. Click "TYTUŁ" and enter In the Zone in the search box.
  186. ^ “Chứng nhận album Bồ Đào Nha – Britney Spears – In The Zone” (bằng tiếng Bồ Đào Nha). Associação Fonográfica Portuguesa. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 11 năm 2010. Truy cập ngày 29 tháng 6 năm 2021.
  187. ^ “Chứng nhận album Nga – Britney Spears – In The Zone” (bằng tiếng Nga). Национальная федерация музыкальной индустрии (NFPF). Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2023.
  188. ^ “Chứng nhận album Singapore – Britney Spears – In the Zone” (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Singapore. Truy cập ngày 26 tháng 1 năm 2023.
  189. ^ “Chứng nhận album Hàn Quốc – Britney Spears – In the Zone” (bằng tiếng Hàn). 한국음악콘텐츠협회 (KMCA).
  190. ^ “Chứng nhận album Tây Ban Nha” (bằng tiếng Tây Ban Nha). Productores de Música de España. Chọn Álbumes dưới "Categoría", chọn 2004 dưới "Año". Chọn 4 dưới "Semana". Nhấn vào "BUSCAR LISTA".
  191. ^ “Guld- och Platinacertifikat − År 2004” (PDF) (bằng tiếng Thụy Điển). IFPI Sweden. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 17 tháng 5 năm 2011. Truy cập ngày 21 tháng 1 năm 2014.
  192. ^ “The Official Swiss Charts and Music Community: Chứng nhận ('In the Zone')” (bằng tiếng Đức). IFPI Thụy Sĩ. Hung Medien. Truy cập ngày 21 tháng 1 năm 2014.
  193. ^ @officialcharts. “Happy 15th Birthday to @BritneySpears' In The Zone album!” (Tweet). Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2021 – qua Twitter.
  194. ^ “ARIA New Releases Albums – Week Commencing 17th November 2003” (PDF). The ARIA Report (717): 30. 17 tháng 11 năm 2003. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 7 tháng 12 năm 2003. Truy cập ngày 26 tháng 11 năm 2022 – qua World Radio History.
  195. ^ “Get In The Zone”. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 25 tháng 8 năm 2016 – qua Amazon.
  196. ^ “New releases – Albums” (PDF). Music Week: 28. 15 tháng 11 năm 2003. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 26 tháng 11 năm 2022. Truy cập ngày 26 tháng 11 năm 2022 – qua World Radio History.
  197. ^ “In The Zone”. 18 tháng 11 năm 2003. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 25 tháng 8 năm 2016 – qua Amazon.
  198. ^ “In The Zone”. 18 tháng 11 năm 2003. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 7 năm 2022. Truy cập ngày 25 tháng 8 năm 2016 – qua Amazon.
  199. ^ “In the Zone”. Jive Records. 18 tháng 11 năm 2003. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 1 năm 2023. Truy cập ngày 21 tháng 1 năm 2023.
  200. ^ “In the Zone [DVD Audio/Bonus Videos]”. Jive Records. 20 tháng 4 năm 2004. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 11 năm 2022. Truy cập ngày 26 tháng 11 năm 2022.
  201. ^ “In The Zone-DUAL DISC”. 26 tháng 4 năm 2005. Truy cập ngày 25 tháng 8 năm 2016 – qua Amazon.
  202. ^ “In The Zone”. 26 tháng 4 năm 2005. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 25 tháng 8 năm 2016 – qua Amazon.
  203. ^ “In the Zone”. 30 tháng 9 năm 2005. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 25 tháng 8 năm 2016 – qua Amazon.
  204. ^ “In The Zone”. 26 tháng 9 năm 2005. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 25 tháng 8 năm 2016 – qua Amazon.
  205. ^ “In the Zone”. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 25 tháng 8 năm 2016 – qua Amazon.
  206. ^ “Britney Spears – In the Zone Limited LP”. Legacy Recordings. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 3 năm 2022. Truy cập ngày 21 tháng 1 năm 2023 – qua Urban Outfitters.
  207. ^ “Britney Spears – In the Zone Limited LP”. Legacy Recordings. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 3 năm 2022. Truy cập ngày 21 tháng 1 năm 2023 – qua Urban Outfitters.
  208. ^ “Britney Spears – In The Zone Limited Cassette Tape Blue Cassette”. Legacy Recordings. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 21 tháng 1 năm 2023 – qua Walmart.
  209. ^ “Britney Spears – In the Zone Limited LP”. Legacy Recordings. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 8 năm 2019. Truy cập ngày 9 tháng 8 năm 2019 – qua Urban Outfitters.
  210. ^ “Britney Spears – In The Zone [LP]”. Legacy Recordings. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 12 tháng 2 năm 2023 – qua Record Store Day.
  211. ^ “In The Zone (Blue Vinyl)”. Australia: Sony Music. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 11 tháng 5 năm 2024 – qua JB Hi-Fi.
  212. ^ “In The Zone Vinyle Bleu – Britney Spears – Vinyle album” (bằng tiếng Pháp). France: RCA Records. 28 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 11 tháng 5 năm 2024 – qua Fnac.
  213. ^ “Britney Spears: In The Zone (Opaque Blue Vinyl) (LP)” (bằng tiếng Đức). Germany: Sony Music. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 9 tháng 2 năm 2023 – qua jpc.
  214. ^ “In The Zone – Spears Britney” (bằng tiếng Ba Lan). Poland: Sony Music. 28 tháng 4 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 6 tháng 3 năm 2023 – qua Empik.
  215. ^ “Britney Spears In the Zone Vinyl LP Blue Colour”. United Kingdom: Sony Music. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2023 – qua Assai Records.

Tài liệu

  • Heller, Dana Alice (2007). Makeover Television: Realities Remodelled. I.B. Tauris. ISBN 978-1-84511-330-8.
  • Salaverrie, Fernando (2005). Sólo éxitos: año a año, 1959–2002 (bằng tiếng Tây Ban Nha) (ấn bản 1). Madrid: Fundación Autor/SGAE. ISBN 84-8048-639-2.

Đọc thêm

  • Lambiase, Jacqueline; Reichert, Tom (2006). Sex in Consumer Culture: the Erotic Content of Media and Marketing. Routledge. ISBN 0-8058-5090-2.
  • Mamo, Heran (11 tháng 8 năm 2021). “The Weeknd's Next Album Is Taking Inspiration From These 2 Britney Spears Songs”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 12 năm 2022. Truy cập ngày 5 tháng 2 năm 2023.
  • Wass, Mike (14 tháng 12 năm 2020). “Britney Spears' Iconic 'In The Zone' Era: A Gallery”. Idolator. Truy cập ngày 5 tháng 2 năm 2023.

Liên kết ngoài

  • Trang web chính thức
  • In the Zone trên Discogs (danh sách phát hành)
  • In the Zone tại Metacritic
  • x
  • t
  • s
Album phòng thu
Album tổng hợp
  • Greatest Hits: My Prerogative
  • The Singles Collection
  • Oops! I Did It Again: The Best of Britney Spears
  • Playlist: The Very Best of Britney Spears
  • The Essential Britney Spears
Album phối lại
  • B in the Mix: The Remixes
  • B in the Mix: The Remixes Vol. 2
Đĩa mở rộng
  • Britney Spears: In the Zone
  • Britney & Kevin: Chaotic
  • Key Cuts from Remixed
Album video
  • Time Out with Britney Spears
  • Britney Spears: Live and More!
  • Britney: The Videos
  • Britney Spears Live from Las Vegas
  • Stages: Three Days in Mexico
  • Britney Spears: In the Zone
  • Greatest Hits: My Prerogative
  • Britney: For the Record
  • Britney Spears Live: The Femme Fatale Tour
Lưu diễn
Diễn cư trú
  • Britney: Piece of Me
Sách
  • A Mother's Gift
  • Stages
  • The Woman in Me
Trò chơi
  • Britney's Dance Beat
  • Britney Spears: American Dream
Truyền hình
  • Britney and Kevin: Chaotic
Gia đình
  • Jamie Spears (cha)
  • Lynne Spears (mẹ)
  • Bryan Spears (anh trai)
  • Jamie Lynn Spears (em gái)
Tác phẩm về
Britney Spears
  • "Cry Me a River" (bài hát của Justin Timberlake)
  • "Britney's New Look"
  • "Britney" (bài hát của Bebo Norman)
  • Through the Storm
  • "Britney/Brittany"
  • "Britney 2.0"
    • Nhạc phim
  • Britney: For the Record
  • Britney Ever After
  • Framing Britney Spears
  • Britney vs Spears
Bài viết liên quan
  • Quyền bảo hộ
  • Innosense
  • Once Upon a One More Time
  • Britney Spears' Guide to Semiconductor Physics
  • "The Mansion Family"
  • "Buy, Buy Baby"
  • "Ten Sessions"
  • Búp bê Britney Spears
  • Larry Rudolph
  • Kevin Federline
  • Sam Asghari
  • Buổi diễn giữa hiệp Super Bowl XXXV halftime
  • Thể loại Thể loại